TÌNH BẠN TRI KỶ KEO SON GIỮA GS TRẦN VĂN KHÊ và NHẠC SƯ VĨNH BẢO


Tấm hình này ghi lại khoảnh khắc 2 anh em chúng tôi (nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo  & tôi) tái ngộ tại miền Nam nước Việt năm 1974, trong khi tôi có dịp "ghé" lại để viếng thăm đất nước và gặp gỡ một số bạn bè trong giới nghệ thuật. Hình chụp tại tư gia em gái ruột tôi là Trần Ngọc Sương, vợ của Trịnh Bá Cam. Anh Nguyễn Vĩnh Bảo lúc đó có 1 chiếc xe Citroen 2 ngựa (2 chevaux) mà anh tự lái để đi công việc và thăm viếng bạn bè. Hôm đó anh đến thăm tôi và trong câu chuyện về âm nhạc anh luôn luôn sẵn sàng minh hoạ để cho lời thuyết trình thêm phần linh động. 

Mỗi khi tôi được mời đi nói chuyện cho một cơ quan của chánh quyền, ban tổ chức thường cho xe đến đón, nhưng phần nhiều tôi từ chối vì anh Vĩnh Bảo bạn tôi lúc nào cũng sẵn sàng tự lái xe đưa tôi đi khắp nơi trong thành phố. Mỗi khi có cuộc hoà nhạc ở đâu thì anh Vĩnh Bảo luôn đón tôi để cùng đi với anh. Trong chuyến "ghé thăm" đất nước, anh Vĩnh Bảo đều có mặt trong mấy buổi tôi đến thăm trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, tại tư gia của Tổng lãnh sự Pháp, trong các buổi tôi thuyết trình âm nhạc tại trường Đại học Vạn Hạnh hay các nơi khác... anh luôn giúp tôi minh hoạ bằng nhiều nhạc cụ trong truyền thống đờn ca tài tử. Hai anh em khi hoà đờn với nhau lúc nào cũng đều thấy hào hứng. Viết đến đây tôi nhớ lại một câu thơ tôi hoạ vận bài "Cung đàn tri kỷ tri âm" của hiền muội Tôn Nữ Hỷ Khương:

"Mỗi lần tri kỷ phùng tri kỷ 
Nhạc dễ thành chương rộn tiếng tơ..."

Tình bạn trong âm nhạc của hai anh em tôi cũng thành "chương" qua những tiếng tơ giàu thi vị như vậy...

Tấm hình này ghi lại khoảnh khắc 2 anh em chúng tôi (nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo & tôi) tái ngộ tại miền Nam nước Việt năm 1974, trong khi tôi có dịp “ghé” lại để viếng thăm đất nước và gặp gỡ một số bạn bè trong giới nghệ thuật. Hình chụp tại tư gia em gái ruột tôi là Trần Ngọc Sương, vợ của Trịnh Bá Cam. Anh Nguyễn Vĩnh Bảo lúc đó có 1 chiếc xe Citroen 2 ngựa (2 chevaux) mà anh tự lái để đi công việc và thăm viếng bạn bè. Hôm đó anh đến thăm tôi và trong câu chuyện về âm nhạc anh luôn luôn sẵn sàng minh hoạ để cho lời thuyết trình thêm phần linh động.

Mỗi khi tôi được mời đi nói chuyện cho một cơ quan của chánh quyền, ban tổ chức thường cho xe đến đón, nhưng phần nhiều tôi từ chối vì anh Vĩnh Bảo bạn tôi lúc nào cũng sẵn sàng tự lái xe đưa tôi đi khắp nơi trong thành phố. Mỗi khi có cuộc hoà nhạc ở đâu thì anh Vĩnh Bảo luôn đón tôi để cùng đi với anh. Trong chuyến “ghé thăm” đất nước, anh Vĩnh Bảo đều có mặt trong mấy buổi tôi đến thăm trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, tại tư gia của Tổng lãnh sự Pháp, trong các buổi tôi thuyết trình âm nhạc tại trường Đại học Vạn Hạnh hay các nơi khác… anh luôn giúp tôi minh hoạ bằng nhiều nhạc cụ trong truyền thống đờn ca tài tử. Hai anh em khi hoà đờn với nhau lúc nào cũng đều thấy hào hứng. Viết đến đây tôi nhớ lại một câu thơ tôi hoạ vận bài “Cung đàn tri kỷ tri âm” của hiền muội Tôn Nữ Hỷ Khương:

“Mỗi lần tri kỷ phùng tri kỷ
Nhạc dễ thành chương rộn tiếng tơ…”

Tình bạn trong âm nhạc của hai anh em tôi cũng thành “chương” qua những tiếng tơ giàu thi vị như vậy…

NGUYỄN LÊ TUYÊN & NGUYỄN ĐỨC HIỆP : Tại sao Cléo de Mérode kết hợp với nhạc Tài tử ?


Tại sao Cléo de Mérode kết hợp với nhạc Tài tử ?


(Trích bài nghiên cứu “Quan hệ văn hoá Pháp-Việt đầu thế kỷ 20 qua sự kiện Triển lãm Toàn cầu 1900” của Nguyễn, Lê Tuyên & Nguyễn, Đức Hiệp, Tạp chí Văn hóa học số 6 năm 2014)

“….Chương trình biểu diễn của vũ công Cléo de Mérode múa vũ điệu Campuchia kết hợp với ban nhạc Tài tử tại Nhà hát Đông dương kéo dài liên tục trong suốt năm tháng.  Đây là lần đầu tiên Đờn ca Tài tử của Nam bộ được trình diễn cho khán giả đến từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có rất nhiều văn nghệ sĩ, báo chí và giới thượng lưu của châu Âu. Nhà phê bình nghệ thuật, ông Arthur Pougin đã ghi lại về dư luận của Pháp lúc đó: “Người ta đã bàn tán ồn ào sôi nổi rất nhiều về nhà hát Đông Dương này. Bảo đảm, tôi không muốn nói xấu điều gì, và cảnh trình diễn mà nhà hát cống hiến cho công chúng là chắc chắn sẽ không có thiếu một sự thú vị nào đó. Nhưng cuối cùng, giá bán các vé khá đắt (giá cho đến năm franc) với lý do biện minh là họ có thể chứng tỏ cho công chúng thấy một vài đòi hỏi cao về buổi trình diễn, thật ra thì buổi trình diễn cũng không dài hơn đúng nửa tiếng đồng hồ. Tôi biết rõ lý do là vì họ phải tốn chi phí mang những người Đông Dương đến đây và nhất là cô Cléo de Mérode, vừa trở về từ Mỹ…”.  [i]

Sự kiện này phổ biến rộng rãi ở Pháp đến nỗi Nhà nhạc học Julien Tiersot đã phải thốt lên:“Không biết có cần phải nhắc lại vũ điệu Cam Bốt , được đệm nhạc bởi các nhạc sỹ chính gốc từ Nam kỳ, được trình diễn, với y phục và trang sức bản xứ, bởi các vũ công người Ý dẫn đầu với cái duyên dáng quen thuộc, Cô Cleo de Mérode?”. [ii]  Cho đến nay, Đờn ca Tài tử chưa từng có một thời gian biểu diễn ở nước ngoài lâu dài và thành công như vậy.   Cơ duyên nào đã dẫn dắt một minh tinh danh tiếng của châu Âu, “Nữ hoàng Sắc đẹp” Cléo de Mérode lại trình diễn với ban nhạc Việt Nam đến từ Đông dương xa xôi?  Ai là người đã đề nghị và có đủ thẩm quyền quyết định để thực thi sự kiện này?  Cléo đã học điệu múa Campuchia bằng cách nào?

Cuốn Hồi ký của Cléo de Mérode, Le ballet de ma vie (Điệu múa ba-lê của đời tôi) đã hé mở lý do tại sao cô tham gia trình diễn ở Triển lãm Toàn cầu.  Sự trùng hợp là trong khi chính phủ Đông dương chuẩn bị cho Triển lãm Toàn cầu thì cũng là lúc dư luận tại Paris chú ý và khen ngợi “Vũ khúc Javanaise” của Cléo de Mérode.  Ông Charles Lemire là một nhân vật tên tuổi ở Paris và là một ủy viên trong ban tổ chức Triển lãm 1900 đã chú ý đến sự thành công này.  Cléo kể lại rằng ông Lemire đã đến tư gia của cô để trình bày chi tiết về dự án trình diễn ở Nhà hát Đông dương và đề nghị: Voudriez-vous danser des danses cambodgiennes àl’Exposition?” (Cô có đồng ý múa Vũ điệu Campuchia ở Triển lãm (Toàn cầu)?).  Cléo đã trả lời rằng cô không có kiến thức về nghệ thuật múa Đông dương và cần thời gian để tìm hiểu.  Sau đó, với sự nghiên cứu qua các tài liệu, hình ảnh, các tượng điêu khắc của Campuchia, gồm cả các hình tượng vũ công của Angkor Wat, Cléo đã sáng tạo một điệu múa với phong cách Campuchia và chính thức nhận lời với ông Lemire.[iii]

Với thẩm quyền của ban tổ chức, Charles Lemire đã đề nghị với Cléo de Mérode một hợp đồng tuyệt đẹp: trình diễn trong buổi Khai mạc Triển lãm Toàn cầu và liên tục trong 5 tháng với tiền cát-sê (cachet) là 1,500 Francs cho một ngày! Đây là số tiền rất lớn so với trước đó tiền lương của Cléo trình diễn ở Nhà hát Opera chỉ có 200 Francs một tháng. Cléo kể lại cô đã giữ vai trò “Vũ công thần thánh” trong vở kịch múa “Chiếc nhẫn huyền diệu” dựa theo câu chuyện cổ tích Campuchia.

Tư liệu từ Hồi ký của Cléo de Mérode đã cho thấy Charles Lemire là người có vai trò quan trọng có tính chất quyết định đưa đến sự kiện ở Nhà hát Đông dương. Nguyên nhân tác động Charles Lemire tiếp xúc và đề nghị Cléo de Mérode trình diễn đã bắt nguồn từ sự quan tâm và sự tiếp cận văn hoá nghệ thuật của Campuchia và Việt Nam từ lúc ông ở Đông dương.  Lemire đã từng được Vua Norodom mời thưởng lãm vũ điệu cung đình Campuchia.[iv]  Ông là thành viên của Hội Nghiên cứu Đông dương tại Sàigòn và tác giả của nhiều bài ký sự, bài viết nghiên cứu và báo cáo tường trình cho Chính phủ Đông dương về văn hoá nghệ thuật Việt Nam và Campuchia ở thế kỷ 19.”

____________________________________________________

[i] Pougin, Arthur (1900). “Le théâtre et les spectacles a l’Exposition Universelle de 1900”.  Le Ménestrel, 24/2/1901 (p60-61).

[ii] Tiersot, Julien (1900). “Ethnographie musicale: Notes prises à l’Exposition Universelle de 1900” (Dân tộc Nhạc học: Ghi chép tại Triển lãm Toàn cầu 1900).  Le Ménestrel 14/10/1900.

[iii] Mérode, Cléo de (1955). Le ballet de ma vie (Điệu múa ba-lê của đời tôi). Paris: Éditions Pierre Horay.

[iv]  Lemire, Charles (1869). Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l’itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne (Đông dương Pháp và Hoàng gia Cam-bốt, với hành trình từ Paris đến Sài Gòn và Thủ đô của Cam-bốt).  Paris: Challamel aîné.

HÀ ĐÌNH NGUYÊN : Mơ Hoa (Hoàng Giác)


Mơ Hoa (Hoàng Giác)

Nói đến Hoàng Giác, người yêu nhạc xưa sẽ nghĩ ngay đến hai bản nổi tiếng: “Mơ hoa” và “Ngày về”. Trong bài viết này DongNhacXua.com xin mời quý vị thưởng thức sáng tác đầu tay của nhà nhạc sỹ tiền bối.

Mơ hoa (Hoàng Giác). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com
Mơ hoa (Hoàng Giác). Ảnh: amnhacmiennam.blogspot.com

mo-hoa--1--hoang-giac--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Theo nhà báo Hà Đình Nguyên trong bài viết về hai nhạc phẩm “Mơ hoa” và “Ngày về” đăng trên báo Thanh Niên ngày 17.02.2012:

Số tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhưng trong số đó đã có 2 tuyệt phẩm là Mơ hoa và Ngày về. Đó là niềm hạnh phúc và cũng là “tai ương” cho tác giả.

Định mệnh đã đưa đến cho nhạc sĩ Hoàng Giác một người vợ “trên cả tuyệt vời” để đồng cam cộng khổ, để là điểm tựa tinh thần cho chồng trong giai đoạn lao đao nhất của đời mình. Nói về sắc đẹp, bà Kim Châu (vợ nhạc sĩ) được tôn vào hàng “giai nhân đất Hà thành”. Biết bao chàng công tử phong lưu cầu cạnh được kề cận bên người đẹp, thế nhưng bà Kim Châu đã rũ bỏ tất cả để về “nâng khăn sửa túi” cho chàng nhạc sĩ tuy nghèo nhưng rất mực tài hoa, đúng như ước nguyện của mình.

Hoàng Giác sinh năm 1924, gốc làng Chèm (xã Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội). Làng Chèm có nghề làm chả giò truyền thống trong câu thành ngữ “giò Chèm, nem Vẽ”. Cha của ông là một nghệ nhân chơi đàn bầu rất hay đồng thời cũng là một võ sĩ quyền anh, từng giữ chức Chủ tịch Liên đoàn Quyền anh Bắc kỳ. Hoàng Giác được theo học ở Trường Bưởi – một ngôi trường rất nổi tiếng thời đó. Bạn học cùng lớp với ông nhiều người sau này trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng như Dzoãn Mẫn (tác giả Biệt ly), Ngọc Bích (tác giả Mộng chiều xuân), Đoàn Chuẩn (tác giả Thu quyến rũ)… Hoàng Giác được học nhạc trong nhà trường nhưng cũng giống bạn bè đồng lứa, còn mày mò tự học thêm. Những sáng tác đầu tay của thế hệ ấy đa phần ra đời trong giai đoạn này.

Nhưng bản nhạc đầu tay của Hoàng Giác không phải làm tặng cho… người đẹp Kim Châu. Ông kể: “Lúc bấy giờ, chúng tôi phần nhiều ở lứa tuổi 18, 19, cho nên rất mơ ước có những bài hát của người Việt làm với lời Việt. Lứa tuổi chúng tôi lúc đó hầu hết là học sinh, đều say sưa viết. Mơ hoa cũng là một trong những bài tôi viết thời đó. Đấy là năm 1945, tôi vừa tốt nghiệp Trường Bưởi, ở gần nhà tôi có một thiếu nữ trong Hà Đông ra, cô mới tuổi 16 thôi. Dáng người cô thon nhẹ, tóc dài. Chúng tôi gặp gỡ, trao đổi và có những tình cảm quyến luyến như những chàng trai, cô gái tuổi mới lớn khác. Nhìn cô, tôi liên tưởng ngay đến các cô ở làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường đi học. Thế là tôi mơ ước viết một bài để tặng cô ấy, tức nhiên trong lòng đã mang một giấc mơ. Và đấy là bản nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi”.

* Xin ghi DongNhacXua.com và các nguồn có liên quan khi trích dẫn

http://www.dongnhacxua.com/category/nha-tho/ha-dinh-nguyen

CAO ĐẮC TUẤN : BÌNH PHẨM VỀ CA KHÚC “LY RƯỢU MỪNG” của PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG


Bình phẩm về ca khúc “Ly Rượu Mừng”

Friday, February 20, 2015, 9:31

Xin mời thưởng thức: Ly Rượu Mừng – Hợp Ca Asia

https://www.youtube.com/embed/w3JiOy_PDK4“>


Ca khúc “Ly Rượu Mừng” là bài hát thịnh hành trong dịp Tết. Bài hát mời mọi người cùng uống rượu mừng Xuân và nói những lời chúc Tết đến toàn dân và đất nước. Tuy bài hát không mô tả những cảnh tượng và sinh hoạt Tết như pháo nổ, hoa tươi sặc sỡ, bánh kẹo, bài hát tiêu biểu cho Tết Việt Nam vì chúc Tết là một tục lệ quan trọng trong Tết Việt Nam. Cộng với điệu nhạc vui tươi, giai điệu tiết tấu sống động, và lối diễn tả bình dị với vài điểm đặc sắc, “Ly Rượu Mừng” là một bài hát bất hủ trong dịp Xuân về.

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương viết ca khúc “Ly Rượu Mừng” là một bài hát Xuân gồm có những lời chúc Tết đến mọi người và đất nước. Bài hát rất thịnh hành trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Hầu như năm nào các đài phát thanh, truyền hình đều trình bày “Ly Rượu Mừng” trong suốt mấy ngày Tết. Trong các bữa tiệc, người ta thường hát bài này khi cụng ly chúc mừng Tết. Bài hát vẫn còn thịnh hành hiện nay ở hải ngoại trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Tuy nhiên, ca khúc “Ly Rượu Mừng” không còn được ưa chuộng bởi giới trẻ tại Việt Nam hiện nay (Xem, thí dụ như, Anh 2015; Chi 2015).
Thời điểm bài hát được viết không được rõ. Trong tài liệu từ Wikipedia, năm viết được ghi là 1952 (Wikipedia 2015). Tuy nhiên, tờ in nhạc bản gốc ghi có giấy phép in ngày 28-12-1966 (Dòng 2014). (Nhạc sĩ miền Nam thường in lại những tác phẩm viết trước đó.) Bài hát có nhắc đến chiến tranh, hoà bình, và lời chúc các binh sĩ. Nhưng Việt Nam hầu như lúc nào cũng có chiến tranh trong các thập niên 1950 và 1960. Do đó chi tiết này không cho biết rõ thời gian bài hát được viết.

Sau đây là tiểu sử vắn tắt của tác giả (Wikipedia 2015).

Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc. Cha ông là Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được hai người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Người con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.

Phạm Đình Chương học nhạc từ năm 13 tuổi, bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 17 tuổi. Năm 1951, ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với tên Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ra ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Năm 1967, ông thành lập phòng trà “Đêm Mầu Hồng” tại Sài Gòn rất nổi tiếng (Robertino147 2006). Ông viết khoảng sáu mươi ca khúc, gồm nhiều thể loại như dân ca, tình ca, nhạc phổ thơ. Những ca khúc nổi tiếng của ông gổm có: Tiếng Dân Chài, Anh Đi Chiến Dịch, Ly Rượu Mừng, Người Đi Qua Đời Tôi, Nửa Hồn Thương Đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng Dưới Hoa (thơ Đinh Hùng).

Năm 1979, ông vượt biên và đến định cư tại California, Hoa Kỳ (Robertino147 2006). Ông mất vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại California.

Nguyên văn lời bài hát “Ly Rượu Mừng” như sau (Dòng 2014).

Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi

Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi

Người thương gia lợi tức

Người công nhân ấm no

Thoát ly đời gian lao nghèo khó

Á A A A

Nhấp chén đầy vơi, chúc người người vui

Á A A A

Muôn lòng xao xuyến duyên đời

Rót thêm tràn đầy chén quan san

Chúc người binh sĩ lên đàng

Chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành

Mừng người vì nước quên thân mình

Kìa nơi xa xa có bà mẹ già

Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa

Chúc bà một sớm quê hương

Bước con về hòa nỗi yêu thương

Á A A A

Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính

Á A A A

Chúc mẹ hiền dứt u tình

Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương

Xây tổ ấm trên cành yêu đương

Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ

Tiếng thi ca nét chấm phá tô nên đời mới

Bạn hỡi, vang lên

Lời ước thiêng liêng

Chúc non sông hòa bình, hòa bình

Ngày máu xương thôi tuôn rơi

Ngày ấy quê hương yên vui

đợi anh về trong chén tình đầy vơi

Nhấc cao ly này

Hãy chúc ngày mai sáng trời Tự Do

Nước non thanh bình

Muôn người hạnh phúc chan hòa

Ước mơ hạnh phúc nơi nơi

Hương thanh bình dâng phơi phới

Có vài chữ trong bản gốc in năm 1966 có lẽ viết sai. Thí dụ “tuông rơ” thay vì“tuôn rơi”“Muông người” thay vì “Muôn người”“đang phơi phới” thay vì “dâng phơi phới.”

 

Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình thức của “Ly Rượu Mừng.” Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận chi tiết về các khía cạnh văn chương của lời nhạc, nhưng sẽ có phần nói về các khía cạnh âm nhạc của bài hát. Tôi dùng “khán giả” để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.

  1. “Ly Rượu Mừng” tiêu biểu cho nhạc Xuân vì bài hát chú trọng vào lời chúc Tết và có điệu nhạc vui tươi sống động

 

“Ly Rượu Mừng” có nội dung đơn giản, là ca khúc mừng xuân với những lời chúc Tết tới mọi người được hạnh phúc ấm no trong cảnh đất nước thanh bình tự do. Bài hát không có những mô tả hình ảnh hoặc sinh hoạt trong những ngày quanh dịp Tết (thí dụ, pháo nổ, màu hoa sặc sỡ, kẹo bánh) nhưng rất tiêu biểu cho ngày Tết Việt Nam. Đó là vì bài hát chú trọng vào điểm quan trọng nhất trong dịp Tết: chúc Tết. Ngoài ra, bài hát được viết với điệu nhạc Valse, đem lại nét vui tươi sống động trong mùa Xuân. Giai điệu vả tiết tấu có nhiều khía cạnh linh hoạt theo nội dung, rất thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

  1. “Ly Rượu Mừng” gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do:

 

Bài hát mở đầu với lời mời nâng chén rượu để chúc mọi người ở khắp nơi (“Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi“), từ anh nông phu được mùa lúa thơm, người buôn bán có lợi tức, cho tới công nhân lao động thoát được cảnh nghèo khó (“Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi/ Người thương gia lợi tức/ Người công nhân ấm no/ Thoát ly đời gian lao nghèo khó.”) Với các chữ “nông (phu),” “thương (gia),” và “công (nhân),” ta không thể không liên tưởng đến “sĩ nông công thương,” được coi là bốn giai cấp xã hội Việt Nam thời xưa. Không rõ tại sao Phạm Đình Chương bỏ “sĩ” (người học hành). Trong đoạn sau, ông có nhắc đến “sĩ,” nhưng đó là “nghệ sĩ” là những người sinh sống qua nghệ thuật, chứ không phải là những người sinh sống qua học hành hoặc hành nghề chuyên môn như bác sĩ, kỹ sư, luật sư. Có thể lúc bấy giờ, số người “sĩ” không nhiều trong xã hội bằng ba giới “nông, công, thương.”

 

Với “nâng chén,” tác giả mở đầu bằng hành động giơ cao ly rượu khi chúc mừng. Tác gỉả dùng “chén” và “ly” như nhau trong toàn bài hát. Ta nên nói thêm về “chén” và “ly” trong tiếng Việt.

 

Chữ “chén” có nhiều nghĩa trong tiếng Việt. Nghĩa thông thường của “chén” là vật dùng để uống nước, rượu, trà, thường bằng sành hay sứ. Một chữ có nghĩa tương tự là “tách” (do tiếng Pháp “tasse”) nhưng “tách” thường có tay cầm trong khi “chén” thường không có tay cầm. Nghĩa thứ hai là vật dùng để ăn, như chén cơm, chén cháo. Trong nghĩa này, người miền Nam dùng “chén” thay cho “bát” hoặc “tô” mà người miển Bắc thường dùng. “Chén” còn có thể dùng với nghĩa bóng, hàm ý chứa đựng ý tưởng, tâm tình (như “chén tình” trong bài hát).

 

“Ly” khác “chén” ở hai điểm: “ly” thường làm bằng thủy tinh và sâu hơn “chén.” Để uống rượu, người Tây phương thường dùng “ly” và rất ít khi dùng “chén.” Ngược lại, người Việt dùng “ly” và “chén” tùy vào loại rượu. Nguyễn Dư (2014) viết một bài lý thú về nguồn gốc các dụng cụ uống rượu (chén, bát, ly, cốc).

 

Ta cũng nên để ý là khi uống rượu chúc mừng, người ta thường nói “nâng chén” hoặc “cụng ly” chứ ít ai nói “cụng chén.” Có thể vì thói quen “cụng ly” là tạo âm thanh cho thêm phần vui nhộn, và thường thì thủy tinh pha lê của ly mới tạo ra được âm thanh trong vắt, chứ không có mờ đục buồn tẻ như sành sứ của chén. Thực ra có nhiều nguồn gốc giải thích cho thói quen “cụng ly.” Một giải thích theo thói quen Hy Lạp là khi cụng ly, ta có thể làm văng thuốc độc bỏ vào ly rượu của mình vào ly rượu của kẻ đang muốn hại mình (Xem, thí dụ như, Etiquette International; Upton 2010). Một lý thuyết khác là khi cụng ly, ta đuổi ma quỷ ra khỏi rượu và do đó uống rượu an toàn hơn (Etiquette International; Upton 2010). Một giải thích nữa là một ly rượu ngon khơi mạnh các giác quan về nhìn, đụng chạm, vị, và mùi. Do đó, khi cụng ly, ta tạo thêm cảm nhận âm thanh, cho đầy đủ ngũ quan (Etiquette International). Với hai lý thuyết đầu, “cụng ly” hay “cụng chén” đều có ý nghĩa. Nhưng với lý thuyết thứ ba, “cụng ly” có lẽ đúng hơn “cụng chén” vì như trình bày trên, âm thanh tạo bởi hai ly thủy tinh va chạm nhau nghe thánh thót và vang vang hơn chén sành.

 

Ngoài ra, tiếng Việt ta dùng “nâng chén” và “nhấc ly” chứ không dùng “nâng ly” hoặc “nhấc chén.” Đó là vì “nâng” là hành động trịnh trọng, hàm ý dùng sức (thực sự hay bề ngoài). Trong lúc uống rượu bằng chén thời xưa, người ta thường dùng hai tay để “nâng” chén rượu mời với ngụ ý trịnh trọng hoặc bày tỏ sự kính trọng. “Nâng” trong “nâng khăn sửa túi” hoặc tiếng lóng “nâng bi” có ý nghĩa kính cẩn trịnh trọng tương tự. Ngoài ra, vì chén thường không có tay cầm, dùng hai tay để “nâng” chén giữ cho chén thăng bằng, không đổ hoặc rớt. Ngược lại, “ly” thường có hình thể thon dài, có bầu sâu chứa rượu và chân ly dài, và nhẹ, nên cầm ly dễ dàng và không dùng sức nhiều. Do đó, khi đưa ly rượu lên cao, người ta thường dùng một tay để “nhấc” thay vì “nâng.” Một điểm nữa, có lẽ hơi lạc đề, là cách “nhấc” ly hoặc cầm ly rượu. Cách đúng nhất là cầm chân hoặc thân (stem) ly, và không bao giờ cầm bầu (bowl) ly (Xem, thí dụ như, Real Simple). Lý do là khi cầm chân hoặc thân ly rượu, tay người cầm ly sẽ không che rượu trong ly (để màu và mức trong của rượu được nhìn thấy), và thân nhiệt ở tay sẽ không làm thay đổi nhiệt độ rượu. Vì cầm ly rượu ở chân hoặc thân ly và bằng một tay, hành động đưa ly lên thường không cần phải có sự trịnh trọng hoặc nặng nề. Do đó, “nhấc ly” nghe hợp lý hơn “nâng ly.” Tuy nhiên, “nâng ly” hoặc “nâng cốc” vẫn được dùng để ngụ ý trịnh trọng, lễ phép, trong lúc chúc tụng.

 

Trở về với “Ly Rượu Mừng,” mọi người cùng nhấp chén rượu đầy vơi, chúc vui mọi người (“Á A A A Nhấp chén đầy vơi, chúc người người vui.”) Trong dịp Xuân về, ai cũng nao nao với những mối duyên nợ cuộc đời (“Á A A A Muôn lòng xao xuyến duyên đời.”) Với quãng “Á A A A,” bài hát khuyến khích mọi người cùng ca. Có lẽ đó là lý do “Ly Rượu Mừng” thích hợp cho hợp ca và trong cuộc họp mặt đông người khi mọi người cùng nâng ly rượu chúc lẫn nhau.

 

Ly rượu được rót tràn đầy để chúc người binh sĩ lên đường ra nơi trận mạc xa xôi được thành công, làm tươi sáng cuộc đời dân lành (“Rót thêm tràn đầy chén quan san/ Chúc người binh sĩ lên đàng/ Chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành/ Mừng người vì nước quên thân mình.”) Ta hiểu “quan san” là quan ải và núi non, thường để chỉ những nơi xa xôi, hoặc ở biên giới, đồn trú cho binh lính. Lời chúc cũng được gửi tới những bà mẹ già nơi xa xôi, nhớ thương con cháu mong mỏi được gặp lại người con đi xa, sẽ có dịp gặp lại con trở về hội ngộ chan hòa niềm yêu thương (“Kìa nơi xa xa có bà mẹ già / Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa/ Chúc bà một sớm quê hương/ Bước con về hòa nỗi yêu thương.”) Mọi người cùng hát bài hát vui vẻ làm tươi thắm đời người chiến sĩ, và để cho người mẹ già không còn lo âu buồn bã vì con nữa (“Á A A A Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính/ Á A A A Chúc mẹ hiền dứt u tình.”)

 

Ly rượu mừng cũng gởi đến những cặp tình nhân hoặc vợ chồng đang xây tổ ấm cùng nhau (“Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương/ Xây tổ ấm trên cành yêu đương.”) Điều đó không có nghĩa là chúc mừng những cặp vợ chồng mới cưới. Ta biế̉t ít ai làm đám cưới trong mùa Xuân vào dịp Tết. “Đôi uyên ương” chỉ có nghĩa cặp tình nhân, hoặc cặp vợ chồng trẻ đang tạo dựng gia đình nhỏ. Với người nghệ sĩ, chúc mừng họ đem lời ca, tiếng nhạc, câu thơ văn, và nét họa tô điểm cuộc đời thêm mới mẻ tốt đẹp (“Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ/ Tiếng thi ca nét chấm phá tô nên đời mới.”) Như trình bày ở trên, “nghệ sĩ” đây không phải là giai cấp “sĩ” trong “sĩ nông công thương” mà là những người theo ngành nghệ thuật như nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ, ̣điêu khắc gia, v.v.

 

Nhưng lời chúc thiêng liêng nhất là lời chúc cho đất nước hòa bình, không còn chiến tranh, thịt rơi máu đổ. Đó là ngày quê hương được yên vui và những người lính trở về với chén rượu ấm chứa chan đầy tình thương yêu (“Bạn hỡi, vang lên/ Lời ước thiêng liêng/ Chúc non sông hòa bình, hòa bình/ Ngày máu xương thôi tuôn rơi/ Ngày ấy quê hương yên vui/ đợi anh về trong chén tình đầy vơi.”) Có thể đây là lý do ca khúc “Ly Rượu Mừng” không còn được thịnh hành tại Việt Nam hiện nay nữa, vì lời chúc hòa bình có vẻ mất ý nghĩa. Tuy nhiên, với tình trạng thế giới hiện nay và thái độ ngang ngược của Tàu cộng, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Ngoài ra, chiến tranh không nhất thiết là về quân sự, mà còn có ý nghĩa chính trị, văn hóa, xã hội, v.v. Với những ý nghĩa đó, Việt Nam hiện nay vẫn còn chiến tranh trên toàn đất nước dưới sự thống trị tàn bạo của cộng sản.

 

Mọi người hãy cùng nhấc cao ly rượu, chúc cho tương lai sáng sủa tràn đầy tự do, đất nước thanh bình, và mọi người được hạnh phúc tràn trề (“Nhấc cao ly này/ Hãy chúc ngày mai sáng trời Tự Do/ Nước non thanh bình/ Muôn người hạnh phúc chan hòa.”) Trước hết, ta để ý tác giả dùng “nâng chén” và “nhấc cao ly rượu” (thay vì “nâng ly” hoặc “nhấc chén”) như đã đề cập ở trên. Thứ nhì, trong phiên khúc này, tác giả chúc đất nước tự do và thanh bình. Ta phải hiểu Phạm Đình Chương ngụ ý cầu mong nước non thanh bình và sáng trời tự do cho toàn thể đất nước Việt Nam từ Nam ra Bắc. Lúc bấy giờ, miển Nam đã được hưởng nền dân chủ tự do, nhưng miền Bắc bị dưới ách thống trị tàn bạo của cộng sản. Phạm Đình Chương lúc nào cũng tưởng nhớ đến miền Bắc. Tên hát của ông là Hoài Bắc, nói lên tâm tư này. Thứ ba, đây là lời chúc khác với lời chúc trong phiên khúc trước. Trong phiên khúc trước, lời chúc “non sông hòa bình” khác với “nước non thanh bình.” “Hòa bình” ngụ ý không còn chiến tranh, chém giết lẫn nhau. “Thanh bình” ngụ ý yên tĩnh, không bị khuấy động. Một đất nước hòa bình không có nghĩa là thanh bình nếu nước đó vẫn còn những bất công, đàn áp bởi kẻ cầm quyền. Thí dụ điển hình là Việt Nam. Tuy không còn chiến tranh, Việt Nam hiện nay còn bị khuấy động nhiều hơn cả lúc đang chiến tranh, vì những bất công, tham nhũng, đàn áp, và tàn bạo do nhà nước cộng sản xảy ra toàn diện trên khắp vùng đất nước. Đó là không kể hiểm họa mất nước có thể xảy ra nay mai.

 

Tổng kết, mọi người mơ ước hạnh phúc ở khắp mọi nơi và hương thơm thanh bình đang dâng cao (“Ước mơ hạnh phúc nơi nơi/ Hương thanh bình dâng phơi phới.”) “Phơi phới” hàm ý một khí thế đang lên. Lời chúc “thanh bình” gồm cả “hòa bình” lẫn yên tĩnh, và do đó có ý nghĩa mạnh mẽ hơn “hòa bình.”

 

“Ly Rượu Mừng” là một ca khúc đơn giản, gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do. Bài hát có nhiều khía cạnh khác biệt với những bài hát khác về Xuân.

  1. Tuy không mô tả cảnh tượng hoặc không khí Xuân, “Ly Rượu Mừng” tiêu biểu cho ngày Tết vì chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất trong Tết Việt Nam:

 

Ca khúc “Ly Rượu Mừng” thuần túy là những lời chúc Xuân cho mọi người và đất nước. Bài hát hoàn toàn không có mô tả cảnh tượng đón Xuân, hoặc các trang lễ, chuẩn bị, và không khí của những ngày Tết theo truyền thống Việt Nam. Phạm Đình Chương cố tình gạt bỏ những hình ảnh về Xuân, mà chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất là chúc Tết. Cả toàn bài hát không hề có các cảnh tượng thiên nhiên mùa Xuân như màu sắc hoa (mai, đào), mùi hương thơm hoa, nắng vàng, gíó ngàn, tiếng chim hót; hình ảnh đón Tết và trang hoàng trong nhà như bếp hồng, bánh dầy, bánh chưng, kẹo mức, hạt dưa, trái cây, cây nêu; cảnh tượng đường phố như trẻ em khoe quần áo mới, người đi nườm nượp, phố phường đông đúc; các hình ảnh và âm thanh Tết như pháo nổ đì đùng, trống đập múa Lân, phong bì đỏ lì xì, tiếng nhạc ca hát mừng Xuân, v.v.

 

Những bài hát khác về Xuân luôn luôn có, không nhiều thì it, những hình ảnh hoặc gợi ý cho cảnh Xuân và không khí đón Tết. Thí dụ như: “Rừng hoa mai đua nở” (“Tâm Sự Nàng Xuân” của Hoài Linh); “Ngắm vườn bên thấy mai đào nở,” (“Nghĩ Chuyện Ngày Xuân” của Song Ngọc); “Hoa lá nở thắm,” “hoa đào hồng thắm,” (“Cánh Thiệp Đầu Xuân” của Minh Kỳ & Lê Dinh); “Hoa đào hoa mai,” “trẻ thơ khoe áo xinh xinh,” “mứt vàng hạt dưa,” “bánh dầy bánh chưng,” “phong bì thắm tươi” (“Ngày Tết Việt Nam” của Hoài An); “chim hót mừng,” “Lập lòe tà áo xanh xanh,” “đàn chim non xinh xinh tung bay,” “tiếng pháo đì đùng,” “Ngàn hoa hé môi cười vui” (“Xuân Đã Về” của Mink Kỳ); “cánh hồng tươi thắm,” “Muôn sắc khoe tươi,” “Nồng ngát hương thơm” (“Gió Mùa Xuân Tới” của Hoàng Trọng); “nụ hoa vàng mới nở,” “lộc non vừa trẩy lá,” “bầy chim lùa vạt nắng,” “rung nắng vàng ban mai,” (“Anh Cho Em Mùa Xuân” của Nguyễn Hiền, thơ Kim Tuấn); “mai đào nở vàng bên nương,” “pháo giao thừa rộn ràng,” “trông bánh chưng ngồi chờ sáng,” “cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe phố phường” (“Xuân Này Con Không Về” của Trịnh Lâm Ngân); “nắng vàng,” “nâng phím đàn cùng hát ca,” (“Xuân Họp Mặt” của Văn Phụng).

 

Thực ra, cả toàn bài “Ly Rượu Mừng,” chỉ có một chữ “Xuân” duy nhất trong câu đầu. Nếu bỏ chữ “Xuân” này và thay bằng một chữ khác như “vui,” cả toàn bài chỉ hoàn toàn nói về chúc tụng mọi người và đất nước, và không có một chút xíu gì về Xuân hoặc Tết cả. Nhưng có thật là vậy không?

 

Tại sao “Ly Rượu Mừng” luôn luôn được coi là bài hát tượng trưng cho dịp Xuân về, Tết đến?

 

Câu trả lời thật đơn giản nhưng cũng có thể gây ngạc nhiên: Chính lời chúc tụng là đặc tính độc đáo của Tết Việt Nam.

 

Tết Việt Nam có thể không có cảnh tượng thiên nhiên như chim hót, nắng vàng, gió mát, hoặc những hoạt động nhân tạo như pháo nổ, múa rồng, múa lân, hoa mai, hoa đào, bánh chưng, kẹo mứt, quần áo mới, tiếng hát Xuân, phong bì đỏ lì xì.

 

Nhưng Tết Việt Nam không thể nào không có lời chúc Tết.

 

Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau gần như là căn bản sinh hoạt ở xã hội Việt Nam. Người Việt hình như bị ám ảnh với chúc tụng. Người ta chúc nhau trong bất kỳ dịp nào: sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi, sinh đẻ, thi cử (trước và sau khi thi), thăng quan tiến chức, mua sắm đồ dùng, mua nhà, mua xe, cưới hỏi, du lịch, nghỉ hè, đau ốm, ra vào bệnh viện, ra mắt tác phẩm, mở cửa hàng, nhận chức vụ mới, thuyên chuyển, trình diễn, trúng thầu, ký khế ước. Trong một buổi họp mặt, cho dù bất cứ có dịp gì, luôn luôn có người đứng lên ngỏ lời chúc mọi người. Trong một bữa tiệc, sẽ có người nói, “Chúc quý vị một bữa tiệc vui vẻ.” Trên đài phát thanh hoặc truyền hình hàng ngày, các xướng ngôn viên luôn luôn có lời chúc khán thính giả, lúc thì một ngày vui vẻ, một ngày nghỉ an toàn, hoặc một buổi tối ấm cúng với gia đình. Trong một lá thư hay một e-mail, người viết thường mở đầu hoặc kết luận bằng một lời chúc. Ngay cả trong lúc gặp nhau hàng ngày cũng có lời chúc vui vẻ hoặc mạnh khỏe. Những lời chúc nhiều khi biến thành những lời chào hỏi hàng ngày, thí dụ như “Chúc bạn một ngày vui,” tương tự như những câu nói sáo rỗng “Have a nice day!” ở Hoa Kỳ.

 

Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau không phải chỉ xảy ra thông thường ở Việt Nam. Dân chúng tại nhiều quốc gia khác cũng có thói quen tương tự. Nhưng tại các quốc gia này, chúc tụng thường xảy ra tại các buổi họp mặt, tiệc tùng, ăn mừng một dịp nào đó, và thường không xảy ra giữa cá nhân hoặc qua thư từ, và không có sắc thái hầu như là ám ảnh của người Việt. Tại các quốc gia khác, trong bữa tiệc họp mặt, ngoại trừ các xã hội cấm uống rượu (thí dụ, đạo Hồi), thường có những lời chúc tụng giữa khách và chủ qua cách giơ cao ly rượu và cùng uống (toasting). Đa số những lời chúc tụng là cho sức khoẻ (Etiquette Scholar).

 

Người Việt có lẽ tin tưởng vào các lời chúc tụng sẽ quả thật đem lại may mắn, sức khỏe, tiền bạc, thành công, tình yêu. Trong các dịp lễ long trọng như ngày Tết, lời chúc còn có ý nghĩa “thiêng liêng” hơn các dịp khác vì có sự tin tưởng vào thần thánh, tổ tiên ông bà hoặc những người đã khuất trong gia đình, hội họp trong dịp Tết và sẽ giúp những lời cầu chúc thành sự thật. Phong tục cổ truyền Việt Nam trong dịp Tết có nhiều tục lệ như cúng kiến, xông đất, xuất hành, chúc Tết, hái lộc, biếu quà, kiêng cữ, v.v. nhưng có lẽ chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất. Trong những ngày đầu năm, câu đầu tiên người ta nói với nhau khi gặp nhau là lởi chúc Tết. Ngay cả ngày nào đi chúc Tết ai cũng được quy định rõ rệt: “Mồng một chúc Tết mẹ cha/ Mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy.”

 

Do đó, tuy không có những mô tả thiên nhiên, cảnh tượng, nhà cửa, đường phố, thiên hạ, và các hoạt động Tết, ca khúc “Ly Rượu Mừng” biểu hiện một đặc tính quan trọng nhất trong Tết Việt Nam. Đó là những lời chúc Tết trong các ngày đầu năm. Tết Việt Nam sẽ mất ý nghĩa nếu không có những lời chúc Tết và do đó “Ly Rượu Mừng” luôn luôn là một ca khúc được hát trong dịp Tết hàng năm.

 

  1. Giai điệu, tiết tấu, và điệu nhạc valse thích hợp cho lời chúc mừng Xuân với nét vui tươi và sống động:

 

Bài hát được viết với nhịp 3/4, dưới điệu nhạc Valse có tốc độ/ hành độ (tempo) nhanh và do đó đem lại nét sống động và vui tươi, thích hợp cho dịp vui ăn mừng ngày Tết. Nhạc sĩ thường chọn lựa điệu nhạc (tiết điệu) khi soạn nhạc. Tiết điệu là chu kỳ của các phách mạnh và yếu theo một nhịp điệu nào đó. Tiết điệu cho thấy sự liên kết nhịp nhàng trong chuyển động. Thí dụ: valse, rhumba, fox, slow, tango (Phạm Đức Huyến, 37). Ta nên biết có hai điệu nhạc Valse, hoặc Waltz theo tiếng Mỹ: Waltz chậm (slow Waltz) và Viennese Waltz. Cả hai đều có cùng nhịp điệu căn bản nhưng Viennese Waltz có tốc độ nhanh hơn Waltz chậm, có thể nhanh gấp ba bốn lần. Waltz chậm còn được gọi là Boston, do tên thành phố Boston tại Hoa Kỳ khi điệu Waltz được phát triển và du nhập qua Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 (Xem, thí dụ như, OSLH). Nhạc Việt thường dùng Boston cho Waltz chậm và Valse cho Viennese Waltz. Trong bài “Ly Rượu Mừng,” nhạc sĩ Phạm Đình Chương ghi rõ điệu Valse trên tờ nhạc, và bài hát nên được trình bày với tiết điệu nhanh và sống động của điệu Viennese Waltz.

 

Giai điệu và tiết tấu của bài hát thích hợp cho hợp ca, như trong buổi họp mặt. Bài hát có những khúc trầm bổng, ngắn gọn và kéo dài tùy vào nội dung của câu hát, tạo nên nét linh hoạt và sống động. Thí dụ câu “Bạn hỡi/vang lên/ Lời chúc/ thiêng liêng” có bốn ngắt quãng với dấu nghỉ, và ở nốt cao, diễn tả lời kêu gọi mọi người cùng vang lên lời chúc. Lời kêu gọi đó được nhấn mạnh qua bốn ngắt quãng và nốt cao tạo nên khí thế thúc giục mạnh mẽ. Tương phản với câu kêu gọi thúc giục đó, câu “Kìa nơi xa xa có bà mẹ già” có cùng trường độ, nhưng không có dấu nghỉ và lời ca được kéo dài liên tục; do đó tạo ra âm hưởng êm ái nhẹ nhàng, thích hợp cho hình ảnh bà mẹ già mong chờ con.

 

Bài hát gồm có những lời chúc mọi người và toàn dân đất nước. Do đó, âm hưởng bài hát sẽ có khí thế mạnh mẽ và ý nghĩa khi bài hát trình bày qua hợp ca. Tuy bài hát có thể do một ca sĩ hát, âm điệu sẽ được hay hơn nếu có nhiều ca sĩ cùng hát một lúc. Những quãng Á A A A trong bài hát là dành cho khúc hợp ca, có nhiều người đồng xướng. Bài hát cũng sẽ được trình bày linh động nếu có những khúc hát hợp ca xen kẽ những khúc hát đơn ca, hoặc hợp ca giọng nam xen kẽ hợp ca giọng nữ. Ban Hợp ca Thăng Long phối hợp kỹ thuật hợp ca và đơn ca, và hợp ca giọng nam cùng giọng nữ rất tinh vi, đem nét linh động, vui tươi, và nhiều sắc thái cho bài hát (Xem, thí dụ như, Doppelpass01 2010).

 

  1. Bài hát có lối diễn tả đơn giản thích hợp cho các lời chúc Tết chính xác và có vài nét đặc sắc đem lại nét linh hoạt sống động:

 

Trong “Ly Rượu Mừng,” Phạm Đình Chương không có lối dùng chữ hoặc kỹ thuật trình bày gì đặc biệt. Bài hát có ít mỹ từ. Các từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, không cầu kỳ bóng bẩy. Đó chính là điểm hay của bài hát. Bài hát gồm những lời chúc Tết cho mọi người; do đó, ngôn từ cần phải đơn giản thích hợp với bản chất bình dị và chất phác của đa số dân Việt thời bấy giờ. Không ai muốn nói những lời chúc khó hiểu hoặc bóng bẩy làm mất đi ý nghĩa chân thành của lời chúc đầu năm. Ngoài ra, vì bài hát là những lời chúc Tết và không phải là một câu chuyện hoặc tâm trạng của một người nên không có nhiều những khía cạnh kỹ thuật viết như lối trình bày, “cho thấy, đừng kể,” chú trọng vào chi tiết rõ rệt, v.v…

 

Tác giả dùng những lời chúc chính xác, ̣đánh đúng vào nguyện vọng của mọi người. Với người nông phu, còn gì sung sướng hơn là ruộng lúa được mùa; thương gia buôn bán có lời nhiều; người lao động không còn nghèo khó; người chiến sĩ thành công nhiệm vụ, giúp dân lành; bà mẹ già gặp lại con trở về, hết cơn u buồn; cặp tình nhân xây tổ ấm; người nghệ sĩ tô điểm đời thêm tươi đẹp; non sông hòa bình và đất nước hưởng thanh bình tự do. Ta không thấy những lời chúc mơ hồ, sáo rỗng, máy móc, như “sức khỏe sung túc,” “sống lâu trăm tuổi,” “tài lộc dồi dào,” “con hiền dâu thảo,” “thăng quan tiến chức,” v.v…

 

Tuy bài hát có lối diễn tả bình dị và đơn giản, cũng có vài điểm đặc sắc đáng ghi. Trước hết, Phạm Đình Chương trình bày cuộc uống rượu mừng là một chuỗi tác động rót rượu, nâng chén hoặc nhấc cao ly, nhấp nháp rượu, uống cạn ly, và rót thêm rượu (“nâng chén ta chúc nơi nơi / Nhấp chén đầy vơi/ Rót thêm tràn đầy chén/ Nào cạn ly/ chén tình đầy vơi/ Nhấc cao ly này“). Mỗi tác động kèm theo lời chúc mọi người. Cách mô tả đó tạo ra cảnh tượng linh hoạt sống động của một bữa tiệc khi mọi người cùng giơ cao ly rượu và chúc lẫn nhau. Thứ nhì, bài hát có vài chỗ dùng “cho thấy, đừng kể,” chi tiết rõ rệt, và ẩn dụ nhẹ nhàng. Thí dụ như “mắt vương lệ nhòa,” “máu xương thôi tuôn rơi,” “chén tình,” “thoát ly đời gian lao.” Cộng với điệu nhạc vui tươi và giai điệu tiết tấu sống động, các diễn tả này đem lại những nét chấm phá rải rác trên khắp bài hát, giúp khán giả có tâm trạng lâng lâng sảng khoái.

 

  1. Kết Luận:

 

Ca khúc “Ly Rượu Mừng” là một bài hát bất hủ cho Tết. Bài hát không có những mô tả thông thường về Tết như pháo nổ, hoa mai hoa đào nở, bánh kẹo trái cây, nhưng đánh đúng vào sắc thái quan trọng trong dịp Tết là chúc Tết. Ngoài ra, với điệu nhạc Valse vui tươi, giai điệu trầm bổng, tiết tấu sống động, và lời ca đơn giản, bài hát thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

 

Với người Việt, Tết là mùa vui vẻ. Những ngày đầu năm là những ngày ai cũng vui cười, trao quà, chúc nhau những lời chúc tốt đẹp. Ngày Tết thực ra có thể tạo căng thẳng cho một số gia đình phải lo tốn kém chuẩn bị, mua sắm và sửa soạn nhà cửa. Với nhiều gia đình nghèo, ngày Tết cũng như mọi ngày trong cuộc đời. Ngoài ra, có nhiều gia đình thiếu thốn người thương yêu vì họ bị giam cầm cho những tội bịa đặt của nhà nước cộng sản. Do đó, trong khi ta hưởng thụ những ngày Tết hạnh phúc với gia đình, ta cũng nên có chút suy nghĩ đến những người đang chịu khổ cực đọa đầy, nhất là những người đang trong ngục tù cộng sản vì đấu tranh cho dân chủ tự do.

 

Đáng kể nhất, ngày Tết còn là những ngày nhắc nhở đến nỗi đau thương cho những gia đình mất người thương yêu trong Tết Mậu Thân năm 1968 khi quân cộng sản, nuốt lời đình chiến đã tuyên bố qua đài phát thanh, tổng tấn công những thành phố đô thị miền Nam. Cuộc thảm sát tại Huế là bằng chứng cho bản chất dã man vô nhân đạo của cộng sản. Bản chất đó vẫn không hề thay đổi từ lúc cộng sản được thành lập cho đến nay, trong suốt 85 năm trời.

 

Tuy chiến tranh không còn trên Việt Nam, đất nước vẫn chưa được hưởng thanh bình và tự do dưới ách cộng sản. Do đó, “Ly Rượu Mừng” vẫn là bài hát có ý nghĩa trong mùa Xuân với lời cầu chúc đất nước “ngày mai sáng trời Tự Do” và “nước non thanh bình.”
Cao Đắc Tuấn

 

________________________________________

Tài Liệu Tham Khảo:

– Anh Tú (Kiến Thức). 2015. 5 bài hát về Tết được giới trẻ yêu thích nhất. 18-2-2015. http://kienthuc.net.vn/cong-dong-tre/5-bai-hat-ve-tet-duoc-gioi-tre-yeu-thich-nhat-453220.html (truy cập 18-2-2015).

– Chi Yên (VNExpress). 2015. 10 ca khúc Việt được nghe nhiều nhất trong những dịp Tết. 17-2-2015.

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/lang-nhac/10-ca-khuc-viet-duoc-nghe-nhieu-nhat-trong-nhung-dip-tet-3148561.html (truy cập 18-2-2015).

– Dòng Nhạc Xưa. 2014. Ly Rượu Mừng (Phạm Đình Chương). 1-1-2014.http://www.dongnhacxua.com/ly-ruou-mung-pham-dinh-chuong (truy cập 17-2-2015).

– Doppelpass01. 2010. Ly Rượu Mừng (Phạm Đình Chương) – Hợp Ca. 6-1-2010.https://www.youtube.com/watch?v=X5C9qtY3yxE (truy cập 18-2-2015).

– Etiquette International. Không rõ ngày. Toasting – A Memorable Art. Không rõ ngày. http://www.etiquetteinternational.com/articles/toasting.aspx (truy cập 17-2-2015).

– Etiquette Scholar. Không rõ ngày. International Toasts. Không rõ ngày.http://www.etiquettescholar.com/dining_etiquette/toasting_etiquette/international_toasts.html (truy cập 17-2-2015).

– Nguyễn Dư. 2014. Nâng chén, cụng li, chạm cốc và đụng lon. 4-2014.http://chimvie3.free.fr/55/nddg155_NangChenCungLi.htm (truy cập 17-2-2015).

– OSLH (Old Sacramento Living History). Không rõ ngày. History of the American Waltz. Không rõ ngày.

http://oslhp.net/2009/node/357 (truy cập 17-2-2015).

– Phạm Đức Huyến. Không rõ ngày. Nhạc Lý Diễn Giải. Không rõ ngày.http://dbvietcatholic.info/CaDoan/tailieu/Nhac_Ly_Dien_Giai.pdf (truy cập 17-2-2015).

– Real Simple. Không rõ ngày. Instant Wine Smarts. How to Hold a Wineglass. Không rõ ngày.

http://www.realsimple.com/food-recipes/shopping-storing/beverages/instant-wine-smarts/hold-wineglass (truy cập 17-2-2015).

– Robertino147. 2006. Mau ki niem – 01. Tieu su nhac si Pham Dinh Chuong. 24-7-2006. https://www.youtube.com/watch?v=TEzCC72oIu8 (truy cập 17-2-2015).

– Upton, Chad. 2010. Why We Clink Glasses When We Toast. 31-12-2010.http://brokensecrets.com/2010/12/31/why-we-clink-glasses-when-we-toast/ (truy cập 17-2-2015).

– Wikipedia. 2015. Phạm Đình Chương. 27-1-2015.

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_%C4%90%C3%ACnh_Ch%C6%B0%C6%A1ng (truy cập 17-2-2015).

 http://www.giaophanbacninh.org/binh-pham-ve-ca-khuc-ly-ruou-mung/

HÀ ĐÌNH NGUYÊN : Cô Láng Giềng (Hoàng Quý)


Cô Láng Giềng (Hoàng Quý)

Trong một bài viết về nhạc phẩm “Bến Xuân”, chúng tôi có đề cập đến mối tình hay có thể chỉ là những rung động đầu đời của một chàng trai trẻ mới ngoài đôi mươi Văn Cao với người đẹp Hoàng Oanh. Hôm nay, để người yêu nhạc xưa có thêm thông tin, DongNhacXua.com xin trân trọng giới thiệu bản “Cô Láng Giềng” của nhạc sỹ Hoàng Quý, người anh cả của nhóm Đồng Vọng và cũng là một người bạn thân của Văn Cao.

Bìa nhạc "Cô láng giềng" xuất bản trước 1975. Ảnh: trungtamasia.com
Bìa nhạc “Cô láng giềng” xuất bản trước 1975. Ảnh: trungtamasia.com

TỪ “BẾN XUÂN” ĐẾN “CÔ LÁNG GIỀNG”
(Nguồn: bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên Thanh Niên ngày 14/04/2012)

Trong dòng nhạc tiền chiến, 2 ca khúc Bến xuân (của Văn Cao) và Cô láng giềng(của Hoàng Quý) chẳng có chút liên hệ. Tuy nhiên, hẳn ít ai biết đã có một “bóng hồng” chen vào giữa cuộc đời của họ.

"Cô láng giềng" trong tuyển tập nhạc tiền chiến. Ảnh: ThanhNien.com.vn
“Cô láng giềng” trong một tuyển tập nhạc sau 1975 . Ảnh: ThanhNien.com.vn

Em đến tôi một lần

Không ai có thể phủ nhận sự tài hoa của nhạc sĩ Văn Cao – cây đại thụ của nền tân nhạc. 16 tuổi đã có sáng tác đầu tay (Buồn tàn thu, năm 1939) và các tình khúc tiếp theo của ông được sánh vào hàng “siêu phẩm”: Suối mơ, Thiên thai, Cung đàn xưa,Bến xuân, Thu cô liêu, Trương Chi… Vào đầu những năm 40 của thế kỷ trước, những bài hát của Văn Cao đã lan tỏa từ bắc chí nam. Người có công đầu là Phạm Duy, lúc đó chưa sáng tác nhạc mà đi theo đoàn cải lương Đức Huy – Charlie Miều lưu diễn xuyên Việt, Phạm Duy chuyên hát “phụ diễn”, bài hát ruột là Buồn tàn thu. Tri âm đến nỗi Văn Cao đã đề tặng dưới cái tựa Buồn tàn thu trong bản nhạc: “Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn”. Còn những người hát nhạc Văn Cao ở phía bắc là ca sĩ Kim Tiêu (nam), Thương Huyền, Thái Thanh (nữ)… Văn Cao sinh năm 1923 tại Lạch Tray (Hải Phòng) nên tham gia vào nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Quý. Cũng chính ở thành phố biển này, Văn Cao đã gặp một giai nhân để rồi dòng nhạc tiền chiến có thêm một viên ngọc lấp lánh: ca khúc Bến xuân (đồng sáng tác với nhạc sĩ Phạm Duy).

Trong cuốn băng video Văn Cao – Giấc mơ đời người (đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng phim Trẻ sản xuất năm 1995, tái bản năm 2009), trong phần giới thiệu ca khúcĐàn chim Việt (tức Bến xuân), nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Vì thế nên mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”… Người con gái ấy chính là Hoàng Oanh, nữ ca sĩ ở Hải Phòng (sau này trong miền Nam cũng có nữ ca sĩ Hoàng Oanh hiện ở hải ngoại, không phải Hoàng Oanh trong bài viết). Nhưng tại sao nhạc sĩ Văn Cao yêu mà không dám nói? Là bởi con tim của nhạc sĩ “chậm xao động” hơn hai ông bạn thân. Biết được cả Kim Tiêu lẫn Hoàng Quý đều đem lòng yêu thương Hoàng Oanh, chàng nhạc sĩ trẻ đành nín lặng, ôm mối tình đơn phương… Tuy thế, sau những lần gặp gỡ, qua ánh mắt, nụ cười nàng đã hiểu tấm chân tình của chàng. Rồi một hôm, Văn Cao đang ở Bến Ngự (Hải Phòng) thì nàng tìm đến. Không chỉ thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho chàng vẽ (Văn Cao còn là một nhà thơ kiêm họa sĩ), rồi ân cần ngồi quạt cho chàng sáng tác nhạc… Có thể nói ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người mà còn là một bức tranh hết sức sống động, một bài thơ với những ca từ đầy biểu cảm. Tóm lại cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân”. Hình ảnh thẹn thùng, khép nép của giai nhân trong nhạc của Văn Cao sao mà đáng yêu chi lạ: “Mắt em như dáng thuyền soi nước. Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân”. Hôm đó có lẽ nàng cũng có hát nữa nên mới “nghe réo rắt tiếng Oanh ca”. Bản nhạc được NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao – Phạm Duy” (sau này nhạc sĩ Văn Cao đặt lời mới và đổi tựa thành Đàn chim Việt). Chẳng biết nhạc sĩ Phạm Duy “đóng góp” như thế nào trong phần lời nhưng ở đoạn cuối, rõ ràng là tâm trạng của Văn Cao: “Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác. Em vắng tôi một chiều. Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu. Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ù u ú. Lệ mùa rơi lá chan hòa” (dùng chữ “lệ mùa rơi lá” quá hay!). Cái cảnh chàng gột áo phong sương trở về bến cũ sao mà buồn đến nao lòng: “Người đi theo mưa gió xa muôn trùng. Lần bước phiêu du về chốn cũ. Tới đây mây núi đồi chập chùng. Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng. Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xưa”.

Nàng đến thăm chàng một lần, rồi… thôi, chừng đó cũng đủ hiểu lòng nhau và đã quá lãng mạn. Sau này gia đình ca sĩ Kim Tiêu có dạm hỏi Hoàng Oanh nhưng hôn sự bất thành vì gia đình nhà gái thách cưới cao quá. Bản thân Kim Tiêu cũng gặp phải nhiều sóng gió và nghe nói chết trong nghèo đói ở thềm ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Rồi Hoàng Oanh lên xe hoa, trở thành vợ của nhạc sĩ Hoàng Quý.

Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về

Nhạc sĩ Hoàng Quý sinh năm 1920 (lớn hơn Văn Cao 3 tuổi) và là thủ lĩnh nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng. Ông được biết tới như là một nhạc sĩ tiên phong sáng tác thể loại nhạc hùng, hát cộng đồng (tráng ca) với các ca khúc: Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Bóng cờ lau, Tiếng chim gọi đàn… Tuy nhiên, người ta nhớ đến Hoàng Quý nhiều nhất bởi ông là tác giả của ca khúcCô láng giềng bất hủ.

Thời điểm nhạc sĩ sáng tác Cô láng giềng cũng gần như cùng lúc với Văn Cao viết ca khúc Bến xuân (khoảng năm 1942, 1943). Lúc này Hoàng Quý phải rời Hải Phòng để lên Sơn Tây làm thư ký cho một trang trại nuôi bò. Chuyến đi khiến ông phải chia tay với người yêu (rất có thể là Hoàng Oanh). Ở Sơn Tây, Hoàng Quý luôn nhớ đến người yêu và mơ một ngày trở về. Đó là chất liệu để ông viết Cô láng giềng: “Hôm nay trời xuân bao tươi thắm. Dừng bước phiêu du về thăm nhà. Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi, tôi đã hình dung nét ai đang cười… Tôi mơ trời xuân đôi môi thắm. Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền. Làn tóc mây cùng gió ngàn dâng sóng. Xao xuyến nỗi niềm yêu… Cô láng giềng ơi! Tuy cách xa phương trời tôi không hề. Quên bóng ai bên bờ đường quê. Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”.

Năm 2002, người viết có phỏng vấn nhạc sĩ Tô Vũ (em ruột nhạc sĩ Hoàng Quý), ông cho biết nhạc sĩ Hoàng Quý chỉ ở Sơn Tây 6 tháng rồi về quê. Trên đường về, ông có ghé Hà Nội thăm Tô Vũ (lúc đó còn dùng tên thật là Hoàng Phú) và đưa bản nhạc ra khoe với người em. Ông em (Tô Vũ) rất thích giai điệu của ca khúc này, liền xin phép đặt lời 2 cho bản nhạc. Đó là cảnh tượng và tâm trạng của chàng trai khi về tới đầu ngõ thì nghe tiếng pháo vu quy tiễn người yêu đi lấy chồng: “Trước ngõ vào sân vang tiếng pháo. Chân bước phân vân lòng ngập ngừng. Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao. Tôi biết người ta đón em tưng bừng… Đành lòng nay tôi bước chân ra đi. Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi. Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi. Đừng nói đến phân ly… Cô láng giềng ơi! Nay mối duyên thơ đành lỡ rồi. Chân bước xa xa dần miền quê. Ai biết cho bao giờ tôi về?”.

Hoàng Quý tham gia Việt Minh từ rất sớm và hoạt động tích cực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Tiếc rằng tài hoa yểu mệnh, ông mất năm 1946 vì bệnh lao, khi mới 26 tuổi.

Người góa phụ trẻ Hoàng Oanh nửa đường gãy gánh không biết số phận sau này thế nào.

Hà Đình Nguyên

http://www.dongnhacxua.com/category/nha-tho/ha-dinh-nguyen

* Xin ghi DongNhacXua.com và các nguồn có liên quan khi trích dẫn.

HÀ ĐÌNH NGUYÊN : ‘Nỗi lòng’ trong ‘Chiều vàng’ (Nguyễn Văn Khánh)


‘Nỗi lòng’ trong ‘Chiều vàng’ (Nguyễn Văn Khánh)

Nhạc sỹ Nguyễn Văn Khánh (? – 1976) là một trong số những nhạc sỹ để lại cho hậu thế chỉ một vài tác phẩm nhưng những sáng tác ấy đã trở thành bất hủ. ‘Nỗi lòng’ và ‘Chiều vàng’ là hai bản nổi bật mà người nhạc sỹ tài hoa để lại cho người yêu nhạc chúng ta. DongNhacXua.com xin trân trọng giới thiệu dòng nhạc Nguyễn Văn Khánh cùng bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên.

Chiều vàng (Nguyễn Văn Khánh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Chiều vàng (Nguyễn Văn Khánh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

chieu-vang--1--nguyen-van-khanh--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

NHỮNG BÓNG HỒNG TRONG THƠ  NHẠC: CÓ MỘT “CHIỀU VÀNG” TRẢI “NỖI LÒNG”
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên đăng trên ThanhNien.com.vn ngày 16/02/2012)

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh thuộc thế hệ nhạc sĩ thứ 2 của nền tân nhạc VN. Tuy nhiên, ông chỉ để lại vài tác phẩm, trong đó nổi bật là các ca khúc Chiều vàng và Nỗi lòng…

Nhạc sỹ Nguyễn Văn Khánh. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Nhạc sỹ Nguyễn Văn Khánh. Ảnh: ThanhNien.com.vn

“Ngón nghề độc chiêu” của Nguyễn Văn Khánh là chơi đàn guitar Hawaienne (Hạ uy cầm). Không biết ông học từ ai, nhưng theo Hoài Nam trong 70 năm tình ca âm nhạc Việt Nam (Đài SBS, Úc, thực hiện) thì trước 1954, ở Hà Nội chỉ có 2 nhạc sĩ chuyên đàn và sáng tác cũng như dạy đàn bằng Hạ uy cầm là William Chấn (thầy của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn) và Nguyễn Văn Khánh. Riêng ông Khánh lại đánh đàn bằng tay trái, cho nên “nếu không phải là… thiên tài thì cũng là người có khả năng đặc biệt”. Cùng thời với ông là những nhạc sĩ: Hoàng Dương, Hoàng Trọng, Nguyễn Thiện Tơ, Hoàng Giác, Tu My, Hùng Lân… góp phần làm nên thời cực thịnh của tân nhạc VN thập niên 1944-1954…

Dạo nền tân nhạc mới thành hình ở nước ta (đầu thập niên 1940), “các chàng nghệ sĩ Tây nhạc” luôn là thần tượng của nhiều cô gái, nhất là ở các chốn thị thành. Ở Hà Nội, Nguyễn Văn Khánh mở lớp dạy Hạ uy cầm và Tây ban cầm ở gần ga Hàng Cỏ (lối đi xuống chợ Khâm Thiên), phía trước nhà có một cái ao, bên kia ao là nhà trọ của các nữ sinh. Những đêm trăng sáng, Khánh đem đàn ra sân chơi, tiếng đàn Hạ uy cầm réo rắt… Phía bên kia ao, đám nữ sinh rủ nhau ra ngồi nghe đàn trông như một đàn cò trắng.

Vậy mà ở gần đó, ngay phố Khâm Thiên, có một thiếu nữ đẹp người, đẹp nết nhưng lại chẳng chút động lòng hoặc tơ tưởng đến “các chàng nghệ sĩ Tây nhạc”, nàng chỉ chăm lo phụ giúp cha mẹ. Cô gái ấy tên Đặng Thị Thuận. Cô gái không màng đến những chàng nghệ sĩ hào hoa kia lại “bị” bà dì của mình mai mối cho Nguyễn Văn Khánh. Lúc đầu, cô Thuận cứ “ứ thèm”, chẳng cần biết Khánh là ai, thậm chí khi nhà trai đem lễ vật đến chạm ngõ, cô cũng chẳng thèm… len lén xem mặt anh chàng kia như những cô gái khác thường làm. Ấy thế nhưng, bà chị dâu của cô lại xăng xái:“Mày không chịu, nhưng cứ để tao xem cái mặt mẹt của nó xem sao!”. Lát sau, bà chị dâu ấy chạy vào bếp, mách: “Tao thấy mặt mũi nó cũng được đấy, Thuận à!”… và được sự “động viên” của những người thân trong gia đình, cô Đặng Thị Thuận chính thức trở thành bà Nguyễn Văn Khánh vào đầu năm 1942. Khi ấy cô 20 tuổi!

Vợ chăm chồng viết nhạc cho người yêu

Cuộc hôn nhân tuy không hình thành từ tình yêu trước đó nhưng không vì thế mà cô Thuận đẹp người, đẹp nết lại quên mất cái “nết” của mình. Cô một mực ân cần chăm lo cho chồng, thậm chí lo cả cho gia đình nhà chồng. Có lẽ cảm được tấm chân tình của vợ nên mấy năm đầu của cuộc hôn nhân này ông Khánh “tu chí”, thường xuyên ở nhà (bởi sau đó là quãng thời gian dài ông đi phiêu bạt giang hồ). Thời gian này, ông cất căn nhà nhỏ, không xa ngôi nhà chính là mấy, vì căn nhà nhỏ ấy nằm lúp xúp bên một gốc đa nên cả nhà và cả chính ông đều gọi một cách thân thương là “cái miếu”. Đó là không gian riêng của ông, nơi ông ngồi để sáng tác các ca khúc riêng tặng… những người phụ nữ khác! (thực ra ca khúc đầu tay của Nguyễn Văn Khánh có tựa là Thu, viết năm 1946 được riêng tặng cho vợ, nhưng vì tặng vợ nên cô Thuận cất làm kỷ niệm, thành ra không phổ biến), còn những Chiều vàng, Nỗi lòng, Nghệ sĩ với cây đàn, Lời thề xưa, Chiều gặp gỡ… (sáng tác từ năm 1951 trở về sau) đều viết cho những phụ nữ khác. Mỗi khi viết xong một ca khúc, ông Khánh thường tự tay mang lên Đài phát thanh Hà Nội rồi tự hát: “Yêu ai, yêu cả một đời. Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta. Đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ…” (Nỗi lòng). Rồi “…Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng. Tình tràn đầy sầu chung non nước. Hồn em có cùng người chứng minh. Anh bước ra đi luyến tiếc hoài. Đời còn có em nay là thôi… (Chiều vàng).

Bà Thuận, vợ nhạc sỹ Nguyễn Văn Khánh. Ảnh: ThanhNien.com.vn
Bà Thuận, vợ nhạc sỹ Nguyễn Văn Khánh. Ảnh: ThanhNien.com.vn

Chuyện ông viết ca khúc vì những người phụ nữ khác là có thật (trừ bài Thu). Người nhà ông kể rằng bài Nghệ sĩ và cây đàn được ông viết sau chuyến đi Bắc Ninh thăm người yêu cũ nhưng không gặp. Lạ một điều, mỗi lần ông ngồi viết nhạc trong “miếu” thì lúc nào bà Thuận cũng ngồi phía sau cầm quạt, quạt cho ông. Bà không biết tí gì về âm nhạc, cũng chẳng quan tâm ông viết nhạc cho ai ngoài việc tôn trọng chồng và tôn trọng nghề nghiệp của chồng…

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh mất ngày 20.8.1976, bà Thuận tính, vậy là bà làm vợ ông những 34 năm, nhưng khoảng thời gian ông ở cạnh bà chỉ bằng một phần ba con số đó. Hai phần ba thời gian còn lại ông đuổi theo những cuộc tình khác, và người khiến cho ông “bận bịu” nhất là Lê Thị Sâm – bà này đẻ cho ông Khánh những 7 đứa con. Tuy thế, vào năm 1973 bà Sâm cũng quyết liệt xua đuổi “bố của bầy trẻ” ra khỏi nhà khi ông bị chứng viêm quai hàm – giai đoạn cuối. Bà Thuận lại mở rộng vòng tay đón “chàng nghệ sĩ Tây nhạc… đa tình” trở về mái nhà xưa lo thuốc thang. Chẳng những thế, bố chồng của bà lại năn nỉ cô con dâu “đẹp người, đẹp nết” đưa 2 đứa con quặt quẹo của chồng bà với bà Sâm (5 người con trước của họ mất vì bệnh) về nuôi “làm phúc”. Ai cũng khen bà nhân hậu, cao thượng, bà chỉ cười, khiêm tốn: “Tôi chỉ được cái nuôi con nhỏ “mát tay”!”. Bà Sâm mất năm 1979, không thấy được hai người con của mình giờ đây đã được nuôi dạy nên người…

Hà Đình Nguyên

http://www.dongnhacxua.com/category/nha-tho/ha-dinh-nguyen

* Xin ghi DongNhacXua.com và các nguồn có liên quan khi trích dẫn.

http://www.dongnhacxua.com/category/nha-tho/ha-dinh-nguyen

TRẦN QUỐC BẢO / THẾ GIỚI NGHỆ SĨ SỐ 4 (6 tháng 3, 2015) : Nữ nhạc sĩ dương cầm HÀ TRẦN con gái của cố quái kiệt TRẦN VĂN TRACH


THẾ GIỚI NGHỆ SĨ SỐ 4 (Ngày 6 Tháng 3 Năm 2015 – Phần 2)

    Tối thứ bẩy ngày 28 tháng 2 năm 2015, một chương trình độc tấu piano (piano recital) do nữ nhạc sĩ Hà Trần trình diễn tại nhà thờ Cathédrale Sainte Croix des Arméniens, địa chỉ 6ter rue Charlot, 75003 Paris trong khung cảnh của “l’Heure musicale au Marais ” (Giờ âm nhạc tại Marais). Ít người ở Pháp biết Hà Trần là con gái của quái kiệt Trần Văn Trạch và là em chú bác với nhạc sĩ Trần Quang Hải. Tham dự buổi trình diễn này có mẹ của Hà Trần, ca sĩ Bạch Yến, nhạc sĩ Trần Quang Hải và một số người Việt quen biết với hơn 100 người Pháp yêu nhạc cổ điển tới dự . Chương trình gốm có Sonate op 81 “Les Adieux” của Beethoven, Ave Maria của Schubert và Liszt, Ballade op. 23 và Etude op 25 n°12 của Chopin, và Menuet của Haendel.
    Nguyệt Hà hiện là giáo sư dạy đàn piano ở hai âm nhạc viện thuộc vùng ngoại ô Paris. Đã đậu bằng quốc gia dạy piano (diplôme d’état de piano) của Pháp . Ngoài việc dạy đàn piano, Nguyệt Hà còn trình diễn độc tấu piano (piano recital) ở Pháp và Âu châu .
Bạch Yến, Hà Trần, giáo sư piano, mẹ của Hà TrầnBạch Yến, Hà Trần, giáo sư piano, mẹ của Hà Trần

Hà Trần và nhạc sĩ Trần Quang HảiHà Trần và nhạc sĩ Trần Quang Hải

Nhạc sĩ Hà Trần chuẩn bị trình diễnNhạc sĩ Hà Trần chuẩn bị trình diễn

Nữ nhạc sĩ Hà Trần và vị giáo sư dậy côNữ nhạc sĩ Hà Trần và vị giáo sư dậy