HÀ ĐÌNH NGUYÊN : Người kế vị ‘vua đàn môi’ VN


tranquanghaidanmoivn.wordpress.com/2015/03/22/ha-dinh-nguyen-nguoi-ke-vi-vua-dan-moi-vn/

Người kế vị ‘vua đàn môi’ VN

http://www.thanhnien.com.vn/van-hoa-nghe-thuat/nguoi-ke-vi-vua-dan-moi-vn-543752.html

Suốt một thời gian rất dài, GS-TS Trần Quang Hải được coi là người VN duy nhất nghiên cứu về đàn môi, nên ngoài danh xưng “vua muỗng” ông còn được xem như “vua đàn môi” của VN. Nhưng nay, chính ông đã hoan hỉ xưng tụng người học trò của mình là “một tài năng duy nhất về đàn môi ở VN”.

Khai Nguyên biểu diễn đàn môi Khai Nguyên biểu diễn đàn môi – Ảnh: H.Đ.N

Qua sự giới thiệu của GS-TS Trần Quang Hải, chúng tôi đã về tận Phương Lâm, vùng đất Đồng Nai tiếp giáp tỉnh Lâm Đồng để tìm gặp “tài năng duy nhất ở VN” này. Đó là chàng trai Đặng Văn Khai Nguyên, còn rất trẻ (24 tuổi).

Học đàn môi qua internet

Khai Nguyên kể rằng, vào khoảng năm 2010, một lần xem ti vi thấy GS-TS Trần Quang Hải biểu diễn hát song thanh (ông là cha đẻ nghệ thuật này – NV), thấy hay hay nên em lên mạng tìm hiểu thì mới biết GS Hải còn là một bậc thầy về đàn môi. Tìm hiểu về đàn môi, Khai Nguyên lại thích quá, em tìm nơi bán loại nhạc cụ này để mua chơi thử, song chẳng ai biết. Sau đó, có người cho địa chỉ một cửa hàng nhạc cụ dân tộc ở TP.HCM, Khai Nguyên tức tốc đến mua liền 2 chiếc đàn môi bằng đồng về tự tập. Nửa năm sau, Khai Nguyên chủ động liên lạc với GS-TS Trần Quang Hải và được thầy hướng dẫn các kỹ thuật cơ bản về đàn môi (cách tạo tiết tấu, cao độ, âm sắc…). Thầy Hải cũng gửi nhiều tài liệu, video clip về đàn môi, Khai Nguyên cứ theo đó mà luyện tập. Trong quá trình tập luyện, em cũng tự quay video gửi cho thầy để xin chỉ dẫn. Khai Nguyên bảo rằng lúc đó em chỉ chuyên tâm tập luyện và sưu tầm đàn môi trong nước (của đồng bào dân tộc H’mông).

Đam mê đàn môi, Khai Nguyên tìm cách giao lưu với những người có chung niềm yêu thích này nhưng lúc đó ở VN hiếm có nghệ nhân đàn môi nào xuất hiện trên mạng xã hội. Vậy là Khai Nguyên lập một trang cá nhân trên Facebook để giao lưu với những người chơi đàn môi trên khắp thế giới. Đến nay em không thể nhớ nổi mình đã kết bạn với bao nhiêu người, chỉ nhớ là có bạn nhiều nhất ở Nga, Indonesia, Nhật Bản… Không chỉ giao lưu, Khai Nguyên còn trao đổi đàn môi và học cách chơi đàn theo văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia.

Sưu tập hơn 600 cây đàn môi khắp thế giới

Đến nay, bộ sưu tập của Khai Nguyên đã có hơn 600 cây đàn môi của gần 30 quốc gia (VN, Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Anh, Áo, Hungary, Slovakia, Estonia, Na Uy, Thụy Điển, Ý…). Khai Nguyên nhận xét: “Nhìn chung, đàn môi của các nước châu Á (trừ Hàn Quốc, không có đàn môi) đa số được làm bằng tre (một thanh tre liền), có khi cũng được làm bằng sắt hoặc đồng (VN, Nhật Bản, Mông Cổ…). Còn đàn môi của các nước châu Âu đa số làm bằng sắt với 2 mảnh ghép (lưỡi gà và sườn đàn). Mỗi loại đàn môi có một nét văn hóa đặc trưng và lối chơi riêng: đàn morchang (Ấn Độ) và đàn genggong (Indonesia) dùng để hòa âm với các nhạc cụ khác trong các điệu múa lễ hội, đàn khomus của Cộng hòa Yakutia (thuộc Nga) dùng cho các pháp sư giao tiếp với các thần linh và là vật hộ mệnh của họ, đàn môi H’mông của VN dùng để… tỏ tình, còn các loại đàn môi châu Âu thường chỉ dùng để giải trí trong lúc nông nhàn. Qua quá trình tập luyện, chơi đàn và qua trao đổi với các bạn chơi đàn môi trên khắp thế giới, tôi và các bạn đều công nhận cây đàn môi của VN là có bồi âm chuẩn nhất, âm thanh hay nhất, còn cây đàn môi khomus của Yakutia đẹp nhất (được chế tạo rất kỳ công)”.

Một góc bộ sưu tập đàn môi của Khai Nguyên Một góc bộ sưu tập đàn môi của Khai Nguyên – Ảnh: H.Đ.N

Nhận thấy khả năng chơi đàn môi xuất sắc của Khai Nguyên (từ những video clip), GS-TS Trần Quang Hải đã giới thiệu và Hiệp hội Đàn môi quốc tế (International Jew’s Harp Society-IJHS) đã kết nạp Khai Nguyên làm thành viên (ngày 10.5.2012).

Đầu năm 2014, GS-TS Trần Quang Hải về nước và tổ chức buổi nói chuyện về đàn môi tại tư gia của bố mình (GS-TS Trần Văn Khê). Lần đầu tiên hai thầy trò Khai Nguyên gặp mặt nhau. Thầy thuyết trình, trò biểu diễn minh họa rất ăn ý. Đây cũng là lần đầu tiên Khai Nguyên ra mắt công chúng. Tâm nguyện của Khai Nguyên là phổ biến đàn môi Việt càng nhiều càng tốt, vì người VN hình như đang quên lãng một loại nhạc cụ độc đáo của mình, trong khi người nước ngoài lại đánh giá đàn môi VN rất cao và chơi khá phổ biến. Hiện có đến 70% đàn môi sản xuất ở VN được bán ra nước ngoài. Đó là một nghịch lý!

“Khai nguyên tiến xa hơn anh nhiều”

“Em Khai Nguyên sinh sống ở VN, chỉ học hàm thụ với anh mà nay trở thành người chơi nhiều loại đàn môi trên thế giới và đã tiến xa hơn anh nhiều.

Em chơi đủ loại đàn môi, biết cách làm đàn môi tre và sáng chế nhiều kiểu đàn môi tre mà trên thế giới chưa có. Lại có khiếu truyền dạy đàn môi cho thế hệ trẻ. Những đứa nhỏ ở cùng xóm đã được em Khai Nguyên dạy chơi đàn môi và hiện nay có gần 10 em từ 7 tới 12 tuổi chơi đàn môi H’mông rất khá. Gần đây nhất, ngày 17.1.2015, em Khai Nguyên đã cùng anh biểu diễn và dạy đàn môi ở Trường mầm non Hoa Hồng Đỏ, Q.9, TP.HCM với kết quả rất tốt”.

 (Trích thư của GS-TS Trần Quang Hải gửi cho người viết)

Hà Đình Nguyên

NGÀNH MAI , thông tín viên RFA : Đào Duy Từ và công cuộc phát triển nghệ thuật hát tuồng, hát bội


Đào Duy Từ và công cuộc phát triển nghệ thuật hát tuồng, hát bội

Một cảnh trong vở tuồng  "Cánh tay Vương Tá" năm 2011 tại Nhà hát Nghệ thuật Hát bội TPHCM

Một cảnh trong vở tuồng “Cánh tay Vương Tá” năm 2011 tại Nhà hát Nghệ thuật Hát bội TPHCM

Nguồn sankhau3mien.com
 

Hiện nay đang là thời điểm mà hầu hết các đình làng ở Nam Việt đang rộn rịp với Lễ Kỳ Yên. Thiên hạ rộn rả vui mừng, và đặc biệt các đình làng nào có rước hát bội về thì lại càng vui hơn. Do vậy mà trong buổi nói chuyện hôm nay, một lần nữa tôi nói thêm về hát bội.

“Xướng ca vô loại”

Dưới chế độ phong kiến của triều đình Lê, Trịnh ở Đàng Ngoài, nghề đờn ca xướng hát bị bạc đãi, khinh rẻ, bị liệt vào phường “xướng ca vô loại”. Cũng do bởi là con của đào hát, danh sĩ Đào Duy Từ dù tài giỏi văn chương thi phú, vẫn bị cấm không cho vào trường thi. Phẫn chí họ Đào bỏ trốn vào Đàng Trong, được Chúa Nguyễn trọng dụng giao cho việc lớn, ông được Nhà Chúa tin cậy, cử trông coi việc binh cơ ngăn quân Trịnh từ Bắc đánh vào.

Là một nhà quân sự, chính trị tài ba lỗi lạc, họ Đào giúp Chúa Nguyễn xây dựng bộ máy hành chính, quốc phòng, tổ chức hậu phương, xây thành đấp lũy, tóm lại Đào Duy Từ là bậc khai quốc công thần của Nhà Nguyễn. Đồng thời ông cũng mang vào Đàng Trong một tài sản văn hóa quý giá là nghệ thuật hát tuồng, hát bội và lập ra đội nhã nhạc, đưa nghệ thuật sân khấu vào lễ nhạc cung đình.

Thế nhưng, lúc mới trốn vào Đàng Trong chưa gặp thời vận, Đào Duy Từ phải lang thang phiêu bạt bữa đói bữa no, phải đi chăn trâu cho nhà phú hộ đổi lấy miếng ăn. Lúc ấy nhà phú ông có cô Tâm là con gái út, cô này để ý thầm yêu chàng chăn trâu của nhà mình, nhưng rồi chẳng đi đến đâu hết, bởi phú ông không chấp nhận, nói rằng: “Nó bất quá chỉ là một gã chăn trâu mà chớ, nếu tài ba quán chúng sao không lều chõng trường thi, mà lại đem thân trôi nổi xứ người, chịu làm cái công việc mục đồng chăn trâu như vậy”?

Thời gian sau họ Đào kết duyên với một tiểu thơ con nhà quan, và đường hoạn lộ thênh thang rộng mở. Câu chuyện tình khá lý thú giữa chàng nho sinh Đào Duy Từ với tiểu thơ Trần Kim Nương con gái của quan khâm lý Trần Đức Hòa đã làm cho cha con phú hộ tiếc ngơ tiếc ngẩn.

Trên tờ báo Người Việt Xuân Kỷ Sửu 2009 tôi có viết bài “Mùa Xuân Năm Ấy Với Chàng Chăn Trâu Họ Đào” nói về ông Đào Duy Từ, ông Tổ ngành hát bội. Trong những kỳ tới tôi sẽ có bài nói về câu chuyện chàng chăn trâu họ Đào.

Hát bội có từ bao giờ?

hat-boi-622
Đại Lễ Kỳ Yên ở Đình Thần Tân Thới – Tỉnh Bình Dương. (Ảnh minh họa chụp trước đây)

Trên con đường mở rộng bờ cõi, ông cha của ta di cư từ phương Bắc xuống tận bờ biển phía Nam, mang theo phong tục tập quán, lễ nghi, đạo đức về cách ăn nếp ở, nói chung là văn hóa dân tộc. Âm nhạc và sân khấu, hai bộ môn nghệ thuật gắn liền với những khai hoang, lập ấp từ ngày đầu định canh, định cư hầu mang lại nguồn vui, nguồn an ủi, nối tiếp từ đời này sang đời khác.

Không có sử sách nào ghi chép cụ thể nghệ thuật hát bội đã xuất hiện ở vùng phía Nam đất nước chúng ta vào thời điểm nào, cũng như cách sinh hoạt, biểu diễn tổ chức nhân sự ra sao. Sách sử xưa chép: Vào thời Chúa Nguyễn thứ 8, tức chúa Hiếu Vương, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739 – 1765), người con trai thứ 9 của chúa tên là Hiển bị bệnh chết. Chúa đau xót cực độ, bèn hạ lệnh cấm dân gian không được hát xướng trăm ngày. Hết thời gian buồn thảm ấy, chúa sai hai quan thị vệ vào đất Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), bắt “con hát” (hát bội) đem về kinh đô Phú Xuân, để biểu diễn cho chúa tiêu khiển. (Khi xưa người ta gọi đào kép là con hát).

Hình như cậy thế cậy quyền, hách dịch là thuộc tính của những kẻ máu mặt dựa kề chúa thượng, cho nên hai tên thị vệ này dùng quyền lực nhà vua áp bức con hát đến thậm tệ. Lúc bấy giờ Đặng Đại Độ làm quan trấn thủ Biên Hòa, nghe tin thị vệ áp bức dân chúng, trước hết là con hát với chứng cớ rành rành, ông căm tức, bèn ra lệnh bắt hai tên thị vệ ấy xử chém tại chợ Biên Hòa. Xử xong, ông bàn giao công việc cho các quan ở lại chăm lo việc nước việc dân. Còn phần ông mặc quần áo bà ba đeo gông cùm, đi chân đất từ Trấn Biên về Kinh Đô Phú Xuân chịu tội. Con ông can rằng:

Chừng nào về đến kinh đô sẽ hay, còn bây giờ cha nên lên võng mà đi, chuyện gì phải hành hạ mình như thế?

Ông trả lời:

Nếu vậy sao gọi rằng có tội?

Thế rồi ông thản nhiên làm theo ý mình. Từ Biên Hòa đến Kinh Đô Phú Xuân, ông phải đi suốt một tháng ròng với thân phận một tội nhân.

May thay, lúc đến kinh đô gặp Chúa Nguyễn Phúc Khoát, ông được nghe chúa phán rằng:

Ông có tội gì đâu mà phải đày đọa mình đến khổ sở như vậy? Chỉ vì ta buồn phiền mệt nhọc, nên mới bảo chúng nó vào tìm đôi đứa con hát về kinh giúp ta tiêu khiển, không dè chúng lại lợi dụng mệnh lệnh của ta mà giở thói làm càn nên ông buộc phải giết chúng là phải.

Chúa bèn hạ lệnh mở trói và mời Đặng Đại Độ hội triều cùng bàn việc dân việc nước.

Qua sự kiện trên, chúng ta thấy sân khấu hát bội truyền bá vào đất Trấn Biên khá sớm. Ngay từ đầu thế kỷ 18, nơi đây đã xuất hiện con hát tài năng, nổi tiếng đến mức chúa Nguyễn Phúc Khoát phải cho thị vệ kêu ra Kinh Đô Phú Xuân (trong lúc kinh kỳ không thiếu tài năng).

Đến năm 1813, Tả Quân Lê Văn Duyệt là người sanh quán tại Định Tường, rất thích hát bội. Lãnh chức Tổng Trấn Gia Định Thành. Hát bội vốn đã đâm chồi nẩy lộc từ trước đó ít lâu, bây giờ như diều gặp gió, phát dương sinh sắc bởi bàn tay chăm sóc của chính quan tổng trấn. Chẳng những tổng trấn có riêng một đội hát bội, mà các quan xa gần thuộc trấn Gia Định đều tranh nhau lập đoàn hát bội, nuôi con hát trong hàng ngũ của quân đội. Thế là nghệ thuật hát bội đã lập cứ địa vững chắc tại Gia Định.

Nghệ thuật hát bội ở đất này có dịp gần gũi với hí kịch Trung Quốc của người Minh Hương, và với nghệ thuật hát của người Cao Miên, lần lần lớn lên và trau chuốt cho mình cái thân ngày nay vậy!

Thời thập niên 1940, dài cho đến những năm đầu của thập niên 1950 gánh hát bội Tấn Thành Ban, một trong những đoàn danh tiếng thời bấy giờ do ông Huyện Trần Khiêm Cung làm bầu gánh. Hằng năm cứ sau Tết Nguyên Đán từ Tháng hai Âm Lịch trở đi là gánh hát bội của ông Bầu Cung liên tục bán giàn, được mời đi hát cúng Kỳ Yên ở các đình làng quanh tỉnh Gia Định, và đôi khi cũng đi hát ở Biên Hòa, Thủ Dầu Một, hoặc quê hương của ông ở Cần Đước, Long An.

Khi hết lễ cúng Kỳ Yên rồi thì gánh Bầu Cung đi hát quanh quẩn vùng Chợ Lớn, Tân Định, Bà Chiểu… và thường hay về nằm ở tại đình Cầu Muối ở đường Cô Giang. Tuy khán giả không đông đảo như hát ở đình làng, nhưng đêm nào cũng có số khán giả mua vé, nếu không lời thì cũng đủ sở hụi chi phí trả lương đào kép, công nhân.

Thời điểm này khán giả đi coi hát bội còn nhiều, đào kép có thể sống với nghề được. Thế nhưng, đến gần cuối thập niên 1950 thì số người coi hát bội ngày một giảm sút. Và theo như nhận định của những người am tường vấn đề thì số khán giả lớn tuổi lần lượt trước sau qua đời, hoặc già yếu không đến rạp được. Còn khán giả trẻ thì phần lớn đã chuyển sang đi coi cải lương, để thưởng thức tuồng tích mới lạ, thay vì coi hát bội chỉ hát đi hát lại mãi những tuồng dựa theo truyện Tàu.

Về các vở truyền thống trên sân khấu hát bội, các nhân vật nam ít được khán giả quan tâm hơn các nhân vật nữ. Từ hơn hai thập niên nay, người xem không chỉ có tầm nhìn khái quát về nghệ thuật hát bội, mà còn đặc biệt theo dõi diễn tiến của câu chuyện, tài diễn xuất của diễn viên, tính cách của từng vai, số phận của từng nhân vật. Nhân vật được nhiều người chú ý và đề cập đến phải kể là Hồ Nguyệt Cô (tuồng Tiết Giao đoạt ngọc). Một con chồn tu mấy trăm năm đắc đạo thành người (mà là một phụ nữ đẹp), kết duyên cùng tướng Võ Tam Tư. Trong một dịp thay chồng ra trận, nàng say mê một tướng trẻ đẹp trai (Tiết Giao), trao tình cùng hắn rồi bị Tiết Giao đoạt mất ngọc người.

Không còn vật quí giá đó, nàng trở về dinh, vô cùng đau khổ và hối hận khi toàn thân đi vào thoái hóa, để trở về cốt chồn. Võ Tam Tư phát hiện con vật tanh hôi, vung gươm giết chết! Nền luân lý của thời xưa đã khe khắt như thế. Trong đạo phu thê, người vợ bị buộc phải tuyệt đối trung thành với chồng, nếu một phút lỗi lẫm, kể như đánh mất vật quí nhất của mình rồi sẽ bị coi như con vật, không ai thương tiếc. Hồ Nguyệt Cô là một nhân vật tà phái, một người có tội bị trừng phạt, nhưng không ít người xem (nhất là phụ nữ) đã âm thầm xót xa thương cảm cho số phận nàng. Xưa nay, bao nhiêu cô đào hát bội đã thành công qua vai này.

http://www.rfa.org/vietnamese/programs/TraditionalMusic/traditional-music-0321-nm-03202015213516.html

Tin, bài liên quan