VƯƠNG THƯ SINH : Dạ Cổ Hoài Lang và ông Sáu Lầu


Dạ Cổ Hoài Lang và ông Sáu Lầu

     Thuở nhỏ tôi vẫn thường nghe hai cái danh từ khá lạ tai, nghe riết rồi trở thành quen đi trong trí nhớ. Tôi muốn nói đến hai cụm từ ngữ “Dạ Cổ Hoài Lang” và “ông Sáu Lầu”. Vậy thì hai cụm từ này mang ý nghĩa như thế nào trong nền văn hóa Việt Nam? Tôi muốn gom ý muốn tìm hiểu của tôi để làm tựa đề cho bài viết này. Bài viết sẽ được bàn về chủ đề này cũng như những điểm về Cổ nhạc Nam phần như sau:
     Ông Sáu Lầu là ai ?
     Tham khảo sách “Nghệ Thuật Sân Khấu” của tác giả Trần Văn Khải và bài viết “Dạ Cổ Hoài Lang – Một Xuất Xứ Buồn” của giáo sư Trần Văn Khê, viết tại Paris thì ông có tên họ là Cao văn Lầu, sanh năm 1890 tại xã Thuận Lễ, tỉnh Tân An. Năm lên 6 tuổi, theo cha về Bạc Liêu. Ông Sáu Lầu sáng tác nhiều tác phẩm, nhưng tác phẩm “Dạ Cổ Hoài Lang” đã thật sự rung động tâm tư khán thính giả nhiều nhất khi nghe.
     Ý Nghĩa của “Dạ Cổ Hoài Lang”:
     Bản vọng cổ, trước hết có tên là Dạ Cổ, do ông Sáu Lầu sáng chế vào khoảng các năm 1919 hay 1920, tức ba năm sau khi cải lương ra đời. Khi đó tác giả được 30 tuổi khi ông chế bản vọng cổ. Vào thời điểm mà ông lập gia đình, nhưng chẳng may lại không có mụn con nào nối dõi tông đường nên bà mẹ buộc ông phải cưới vợ khác vì sợ tuyệt tự. Ông buồn rầu không còn thiết tha trong cuộc sống, chính tâm sự ưu sầu đó khiến ông cho ra tác phẩm bất hủ này. Ban ngày ra ngoài đồng ruộng tìm sự thanh thản, ông nghiền ngẫm những lời vợ ông nói với ông trước khi chia tay, ông vốn biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng của người chồng đau khổ trước hoàn cảnh cuộc hôn nhân vợ chồng sẽ phải chia ly, ông hứng khởi tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là “Dạ Cổ Hoài Lang”, nghĩa là đêm khuya nghe tiếng trống thúc mà nhớ chồng, để ám chỉ đến kỷ niệm bi thương của tâm sự lòng hay những lời tình tự của vợ ông trao cho ông.
     Có lẽ vì Cao Xanh không phụ người có thiện tâm, nên sau khi ông sáng tác bản vọng cổ này rồi, ít lâu sau vợ ông thụ thai và ông bà có được sáu người con.
     Năm 1953 trong bài viết của tờ báo Dân Mới trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Thanh Cao, khi Thanh Cao hỏi ông Sáu Lầu ngày chào đời bản Vọng cổ, xin cho biết năm nào đã sáng tác. Ông Sáu Lầu trả lời: “Tôi không nhớ rõ đã được bao nhiêu lâu, nhưng chỉ nhớ năm ấy tôi được 29 tuổi và bây giờ tôi đã lên 63”. Báo đăng bài phỏng vấn năm 1953, khi ông 63 tuổi tức là ông chào đời năm 1890. Và năm ông sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang chính xác là năm 1919, vào lúc ông mang tâm trạng khủng hoảng tâm lý, trong hoàn cảnh bi thương bị mẹ bắt buộc phải ly dị với vợ ông sau 8 năm chung sống, vì lý do bà vợ không sanh được con như đã bàn phần trên. Về sau này bản “Dạ Cổ Hoài Lang” được đổi tên là “Vọng Cổ Hoài Lang”, tức trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng. Sau đây là bài Vọng Cổ Hoài Lang nguyên thủy của ông Sáu sáng tác năm 1920:
     Dạ Cổ Hoài Lang
     (nhịp đôi)
“Từ là từ phu tướng
Bửu kiếm sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Ðêm năm canh mơ màng
Em luống trông tin nhạn
Ôi, gan vàng quặn đau
Ðường dầu xa ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
Còn đêm luống trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
Vọng phu vọng, luống trông tin chàng
Lòng xin chớ phụ phàng
Chàng hỡi chàng có hay
Ðêm thiếp nằm luống những sầu tây
Biết bao thuở đó đây sum vầy
Duyên sắt cầm đừng lợt phai
Thiếp cũng nguyện cho chàng
Nguyện cho chàng hai chữ bình an
Mau trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi”
     Trích dẫn nguyên bản lời bài “Ðêm nghe tiếng trống nhớ chồng” của ông Cao văn Lầu (1892-1976) tức soạn giả Sáu Lầu, bài hát tiền thân của bản Vọng Cổ ngày nay.

     (Trích sách “Nghệ Thuật Sân Khấu” của Trần Văn Khải)
     Bài vọng cổ trên đây chỉ có 2 nhịp, sau này các nhạc sĩ sáng tác đã tăng lên thành 4, 8 rồi 16 nhịp. Ca sĩ cải lương cần phải có làn hơi dài thì mới có thể chạy theo những bài hát đa nhịp này, vì thế họ cần luyện tập cho mình một làn hơi càng dài thì giọng ca càng “mùi” và càng được khán thính giả thích thú hơn.
     Ðôi dòng về Cổ nhạc Nam phần:
     Tôi có người bạn gốc Mỹ Tho, anh Dương Bé, sanh trưởng và lớn lên ở miệt lục tỉnh, nhưng anh sang Âu châu du học. Sau khi mất miền nam, anh sang Mỹ định cư. Dù sống ở xứ ngoài khá lâu, nhưng cổ nhạc đã thấm vào dòng huyết quản của anh. Một hôm anh rủ tôi đi ăn trưa, anh thuyết giảng cho tôi nghe thật nhiều về cải lương, lịch sử cổ nhạc mà anh đã nghiên cứu qua bao năm, tôi phục anh vô cùng. Dù mang sở học Âu Mỹ, nhưng tâm hồn anh vẫn là người Việt Nam thuần túy như thuở của miệt lục tỉnh ngày xưa.
     Sau đây là những điều được ghi nhận trong hàng loạt bài viết của anh Dương Bé:
     “Cải lương tuy đã có trước khi bài Vọng Cổ ra đời nhưng nhờ bài hát nầy mà nó đã biến thể, thu hút giới thưởng ngoạn nhanh chóng và đông đảo hơn. Một tuồng cải lương, về kỷ thuật, là một tổng hợp của nhiều bài bản cổ nhạc dựa theo nội dung cốt truyện. Tuy nhiên, dù vở tuồng thuộc bất cứ thể loại nào: bi thảm, hài hước, xã hội, dã sử hay hương xa, nó đều phải có ít nhất một bài Vọng Cổ ở mỗi màn. Bắt buộc không thể thiếu. Nếu do đào kép nổi tiếng thủ diễn thì họ phải hát Vọng Cổ vài lần (thường là lúc chia tay và khi tái ngộ). Thật cũng không ngoa nếu nói cải lương nhờ Vọng Cổ mà đi sâu vào dân chúng, từ giai cấp trí thức đến tầng lớp bình dân, và Vọng Cổ cũng nhờ cải lương mà có một địa vị bất tử trong lòng người dân từ Bắc vô Nam.

     Cổ nhạc Nam phần có rất nhiều bài bản: Xàng Xê, Nam Ai, Văn Thiên Tường, Nam Xuân, Sương Chiều, Tú Anh, v.v. nhưng nổi tiếng nhất vẫn là bài Vọng Cổ. Về sau chữ Vọng Cổ gần như đồng hóa và thay thế cho chữ Cổ nhạc Nam phần. “Nghe Vọng Cổ,” “ca Vọng Cổ,” “Làm vài câu Vọng Cổ nghe chơi!” trở thành ngôn ngữ thông dụng cho cách thưởng thức một bộ môn nghệ thuật đại chúng của dân miền Nam. Tuy nói là “nghe chơi” nhưng phải nhìn khán giả miền Nam khi họ nghe ca Vọng Cổ, dù ở các đám tiệc, buổi đờn tài tử hay trong rạp hát, mới thấy sự trân trọng của họ đối với bài hát và người trình diễn. Không ai bảo ai, tất cả đều im lặng khi câu rao bắt đầu. Họ chờ đợi nhưng cổ võ người nghệ sĩ trong im lặng, háo hức. Người hát cũng đáp lễ bằng để hết tâm hồn vào câu ca vì một câu ca vô hồn sẽ hiện rõ không thể dấu diếm, và đó là điều khinh thường người thưởng ngoạn. Câu xề vừa xuống là tiếng vỗ tay vang rền, từ em bé được cha mẹ dẫn đi xem hát lần đầu đến cụ bà hom hem ngồi bên đứa cháu, từ ông bà sang trọng ngồi ở hàng ghế thượng hạng gần sân khấu cho đến người đàn bà nhà quê ngồi cuối rạp ở hạng cá kèo. Tất cả đều vỗ tay. Tất cả đều bình đẳng. Không kẻ lớn người nhỏ, không kẻ giàu người nghèo. Chỉ có người thưởng thức một bài hát hay.
     Sau hơn 80 năm bài Vọng Cổ vẫn là vị hoàng đế không ngai của âm nhạc miền Nam. Trong một buổi trình diễn cổ nhạc Nam phần, dù là nguyên trọn hay trích đoạn vỡ hát cải lương hoặc đờn ca tài tử, bài Vọng Cổ luôn luôn có mặt và luôn luôn là bài hát chánh. Bài Vọng Cổ là một bài hát đặt biệt của miền Nam, không thể lầm lẫn. Nó là biểu tượng đặc biệt của dân miền Nam. Không to lớn dữ dội như sông Hồng, không thơ mộng, văn vẽ như sông  Hương nhưng như giòng Cửu Long với nhánh sông Tiền, sông Hậu chảy thấm vào đất đai, bồi bổ đồng ruộng, chảy thấm vào lòng người lúc nào không biết. Bản Vọng Cổ thấm vào tâm hồn hiền hòa, chất phác của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và của cả miền Nam nói chung. Nhập vào từ lúc còn ngậm bầu vú mẹ, nhập vào từ lúc chập chửng bước đi cho mãi đến khi đặt chân vào cuộc đời đầy tranh đua, phiền toái.
     Có phải ông Sáu Lầu là người đã đặt ra bài Dạ cổ hoài lang? Theo truyền thuyết, ông Sáu Lầu cưới vợ đã lâu, gia đình đầm ấm  nhưng không có được một mụn con. Cha mẹ ông buộc ông phải cưới vợ khác để ông bà có cháu nối dõi tông đường. Ông Sáu buồn rầu, không biết xử sao cho vẹn cả đôi bên hiếu và tình. Sống xa người vợ thương yêu nhưng nào đâu quên bỏ được. Tuy xa mặt nhưng lòng không cách, tình yêu càng làm nỗi nhớ thương tăng thêm dào dạt. Lòng tâm sự của người chồng gởi cả vào bản nhạc mới được đặt ra, đó chính là bài Dạ cổ hoài lang bất hủ. Tuy bị cấm cản, ông vẫn lén lút lui tới với vợ. Sau đó bà có mang, vợ chồng lại xum họp.
     Sở dĩ tôi chỉ gọi là bản nhạc mà không gọi là bài ca hay bài hát vì hiện nay có một số nghi vấn về lời của bài Dạ cổ hoài lang. Có những người cho rằng lời bài hát do ông Trần Xuân Thơ đặt ra, hay do một nhóm tài tử Sài Gòn đặt ra. Có người lại xác định là ông Sáu Lầu đã sáng tác cả nhạc lẫn lời. Dù sao đi nữa mọi người đều đồng ý là ông Sáu Lầu là cha đẻ của bài nhạc vô địch đó. Bài Dạ cổ hoài lang sau chuyển thành Vọng Cổ hoài lang (Trông tình xưa nhớ đến chồng) và cuối cùng là Vọng Cổ như ta biết ngày nay.
     Theo cá nhân tôi, nếu truyền thuyết về hoàn cảnh sáng tác của ông Sáu Lầu là đúng thì có lẽ ông chỉ đặt ra bài nhạc, còn lời ca là của một nguồn gốc khác chưa được xác định chắc chắn. Tại sao? Ðọc lời ca của bài Dạ cổ hoài lang ta thấy rõ ràng đó là lời than thở nhớ thương của một người vợ có chồng đi chinh chiến nơi phương xa. Nàng mong chồng bình an trong chiến trận, nhớ lời ước hẹn, tình nghĩa phu thê mà sớm quay về gia trung. Ðây không phải là lời thương yêu ai oán của một người chồng, vì hoàn cảnh, đang phải sống xa lìa người vợ thủy chung. Dù có ngụy trang thế nào đi nữa, ông Sáu Lầu cũng không thể đặt ra lời cho một người đàn bà nhớ chồng để gởi gắm tâm sự nhớ vợ của ông. Rất phản tự nhiên. Văn chương của lời ca cũng tương hợp với các loại truyện thơ như Thoại Khanh Châu Tuấn, Lâm Sanh Xuân Nương của đất Nam Bộ thời ấy hoặc các truyện Tàu như Tam quốc chí, Nhạc Phi, Thuyết Ðường do ông Nguyễn Chánh Sắc dịch. Ngoài ra, tất cả các bản nhạc xưa đều được sáng tác nguyên thủy cho nhạc khí, không lời hát và có lẽ nhờ đó mà chúng đuợc phổ biến rộng rải và lưu truyền cho đến ngày nay. Chúng không bị bó buộc tình cảm để chỉ được trình diễn hay thưởng thức trong một hoàn cảnh nhất định như các bài hát có lời.
     Bài Vọng Cổ có một nét đặc biệt mà gần như không một bài hát nào khác được thừa hưởng. Ðó là tính đa dạng, biến thái của bài hát theo lời ca. Cũng cùng điệu nhạc, điệu đàn nhưng bài Vọng Cổ thay đổi hẳn bản chất tùy theo lời đặt ra. Buồn thương sầu thảm như Lan và Ðiệp, Lương Sơn Bá, Chúc Anh Ðài. Não nề ai oán như Sầu vương ý nhạc, Hạng Võ biệt Ngu Cơ. Khuyên dạy êm đềm như Tu là cội phúc, Nỗi mừng ngày cưới. Kể truyện tích xưa như Ðội gạo đường xa, Lưu Bình Dương Lễ. Vui đùa, dí dỏm như Tư Ếch đi Sài Gòn, Tựa tuồng sân khấu. Không một soạn giả nào có thể dùng bài Lý con sáo để nói những lời hý lộng mà chỉ có thể than thở như cô Lan  trong Tình Lan và Ðiệp của soạn giả Viễn Châu (đừng lầm với bài Lan và Ðiệp cũng của ông Viễn Châu):
     “Hoa bay theo gió cuốn rụng đầy sân rêu,
Nhìn hoa tàn rụng rơi, Lan bâng khuâng tê tái tâm hồn
Bởi bao cay đắng dập dồn,
Tình đầu vừa tan theo khói sương,
Lan khóc than trong tháng năm sầu thương.
Mùi thiền đành quen câu muối dưa,
Mong lãng quên khổ đau ngày xưa.”
     Bản Vọng Cổ ca đủ 6 câu phải mất khoảng 6 phút, gần gấp đôi một bản tân nhạc, có thể kể đầy đủ một câu truyện, một sự tích. Vì vậy Vọng Cổ là một phương tiện rất tốt để truyền bá kiến thức văn hóa cho đại chúng nhất là với tầng lớp dân quê ít học. Ðất rộng, người thưa. Vất vả, cô đơn là những nỗi khó khăn mà lớp người tiền phong xuôi Nam khai phá đất đai, mở mang xứ sở phải chịu đựng:
“Má ơi, đừng gả con xa
Chim kêu, vượn hú biết nhà má đâu

     Nhờ Vọng Cổ mà người bình dân miền Nam biết được các tích truyện đầy luân lý như Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Lý Thông, Tử Lộ v.v. hay những điển tích truyện Tàu như Triệu Tử Long triệt giang, Ðơn Hùng Tín, Ðắc Kỷ Trụ Vương, Lữ Bố hí Ðiêu Thuyền, Chung Vô Diệm. Không có lối giáo dục nào hay hơn. Trước là truyện thơ, sau là Vọng Cổ đã tạo cho người miền Nam một nếp sống và nhân sinh quan khác hơn dân các miền khác. Tinh thần phóng khoáng của những bậc tiền bối đi trước đã được các tích Cậu Hai Miêng, Ðào Viên kết nghĩa, Ðơn Hùng Tín, v.v. vung bồi, như phù sa làm phì nhiêu thêm đất vườn vùng đồng bằng sông Cửu, và truyền dạy đến lớp hậu sinh ngày nay. Nó tạo ra những phong cách “tứ hải giai huynh đệ”, “anh hùng tử, khí hùng bất tử” mà đến nay người miền Nam vẫn còn tự hào.
     Rảo bước vào các làng quê miền Nam, người khách lạ luôn luôn nghe tiếng ca Vọng Cổ văng vẳng vọng ra từ một ngôi nhà nào đó trong xóm. Có thể là giọng ca của Minh Cảnh, Lệ Thủy, hay Hữu Phước, Ngọc Giàu. Có thể là bài Vọng Cổ xưa như Người mẹ mùa ly loạn, Gánh nước đêm trăng, có thể là một tân cổ giao duyên như Chàng là ai, có thể là giọng ca hài hước của Văn Hường trong Vợ tôi tôi sợ. Nhưng âm vang của bài Vọng Cổ luôn luôn ôm ấp, quấn quít tâm hồn người dân hiền lành, mộc mạc từ mấy mươi năm trước cho đến bây giờ. Và sẽ còn mãi về sau, thương hoài câu Vọng Cổ.”, Dương Bé, tháng 6, năm 2004.
     Lời kết của bài viết này là khi nghệ sĩ Việt Hùng còn sanh tiền, ông ưu tư về sự mai một của ngành cổ nhạc tại hải ngoại, tôi có dịp gặp ông, ông ca với làn hơi dài chất chứa cả một quê hương mang theo. Ông đã từng tâm sự lòng: “Một giọng hát, một câu hò như “Chiều chiều trước bến Văn Lâu…”, một câu quan họ, hay một câu vọng cổ cất lên làm ta thấy cả “hồn dân tộc trong ấy”. Thật vậy, với lớp người sanh trưởng từ bên kia bờ Thái Bình Dương có những ấp ủ, những quyến luyến với bản sắc văn hóa của người Việt mà chúng ta có đầy đủ lý do để tự hào, để hoài niệm, thì theo ý tôi những suy tư của Việt Hùng hay Dương Bé là nên gìn giữ ngành cổ nhạc tại hải ngoại, vì nó là bộ môn văn hóa độc đáo và cao quí của chúng ta. Nếu đi gần hơn với bài viết “Dạ Cổ Hoài Lang và ông Sáu Lầu” này, soạn giả Cao văn Lầu với những đóng góp của ông trong ngành cổ nhạc, mà trong đó có bài bi thương “Dạ Cổ Hoài Lang”, đã để lại cho đời những tiếng lòng thổn thức trong tâm khảm đầy văn hóa và đầy hương vị của quê hương Việt Nam, và rất “Việt Nam”. Tôi suy nghĩ như vậy.

     Vương Thư Sinh

http://www.quocgiahanhchanh.com/dacohoailang.htm

HOÀNG OANH : Dạ cổ hoài lang: sức sống 90 năm


Kỳ 1: Bản nhạc lòng của tình yêu thời loạn

Dạ cổ hoài lang: sức sống 90 năm

28/09/2009 08:09 (GMT + 7)
 
 
TT – Mới đó mà đã 90 năm kể từ khi nhạc sĩ Cao Văn Lầu viết Dạ cổ hoài lang. Đó cũng là chừng ấy năm bản vọng cổ cùng làm bạn tâm tình của bao thế hệ người dân Nam bộ. 90 năm qua, Dạ cổ hoài lang đã đi xa hơn khuôn khổ của một bản vọng cổ. Giờ đây, bài ca đang được đề xuất trở thành di sản phi vật thể quốc gia.

Trong hành trình tìm lại những ngày đầu ra đời của Dạ cổ hoài lang, chúng tôi tìm về khu mộ của nhạc sĩ Cao Văn Lầu và vợ là bà Trần Thị Tấn nằm trang trọng trong khu di tích rộng lớn sắp được khánh thành tại thị xã Bạc Liêu. Cách đó không xa là nhà của ông Cao Văn Hoai – con trai thứ tư của ông Cao Văn Lầu. Chiều chiều, ông Tư Hoai vẫn thường ra mộ ba má để thắp nhang, hồi tưởng về những tháng ngày xưa cũ.

Chiếc áo rách vai

 

Trong những cuốn sổ tay hiệu Rafale, Igo vàng ố hiện được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu, bút tích của nhạc sĩ Cao Văn Lầu vẫn còn nguyên với thời gian.

Trong sổ, ông vừa ghi lại những bài bản được ký âm ngũ cung, vừa vẽ hình bàn tay trái bấm đờn của mình, vừa ghi tiền bán cua, bán me, vừa… ghi nợ: “Bà Rớt thiếu nửa can nước mắm chưa trả tiền… Dâu cô Năm thiếu hai trái dừa…”.

Cuốn sổ cũng là nơi ông dặn dò con cháu: “Thằng Hai chớ nên đánh vợ” hay thảo sẵn di chúc: “Khi ba mất, nhớ để ba nằm gần má tụi con ở phía mặt trời mọc. Nhớ tụng kinh nhiều nhiều cho ba má nghen”.

 

Ông Tư Hoai năm nay đã hơn 80 tuổi, những bức tường trong căn nhà nhỏ của ông treo chi chít hình ảnh, bằng khen, báo chí liên quan đến cha ông và bản nhạc Dạ cổ hoài lang bất hủ.

Ông tự hào nói: “Hồi đó ba tui thương tui nhứt đó. Tui cũng là người ở gần ba nhiều nhứt. Nhưng tội nghiệp ba tui lắm, ổng hiền lành, tình cảm mà cứ khổ hoài!”.

Cái sự “khổ hoài” mà ông Tư Hoai miêu tả chính là cái nghèo tiền bạc và trắc trở về tình cảm trong cuộc đời của cha ông. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã lớn lên trong cảnh nghèo túng.

Nhưng được cái là: “Hồi đó ba tui đẹp trai lắm, trắng tươi à, lại hay mặc bộ bà ba trắng – ông Tư Hoai hào hứng kể – nên năm 20 tuổi ông đã chiếm được cảm tình của cô Hai Sang, con gái thầy đàn Nhạc Khị nổi tiếng trong vùng”.

Cũng theo lời ông Hoai, chuyện “tình trong như đã, mặt ngoài còn e” của họ kéo dài đến hai năm mà không ai dám bước tới. Hai người không đến được với nhau vì kỵ tuổi khiến ông Sáu Lầu đau khổ vô cùng. Cô Hai Sang sau đó cũng khép lòng lại, gần hai năm sau mới đi lấy chồng vì sự ép buộc của gia đình.

Ngày cưới của cô Hai Sang, ban nhạc tài tử của Cao Văn Lầu cũng được mời đến. Ông lòng đau như cắt. Mãi cho đến khi một bạn đồng môn trong lớp học nhạc đem xe tới ép rước đi thì ông mới miễn cưỡng đi mà không kịp thay áo. Ra đến đám tiệc, vì chiếc áo của mình bị rách bên vai nên ông cởi ra máng lên ghế rồi lo đờn ca, hát xướng phục vụ quan khách.

Lúc này cô Hai Sang ngồi trong phòng, nhìn thấy chiếc áo bà ba rách vai ấy mà khóc nức nở. Cô lặng lẽ lấy xuống vá lại nguyên vẹn. Rồi cô Hai Sang theo chồng. Chiếc áo vá vai trở thành vật kỷ niệm duy nhất còn lại, được ông trân trọng.

Hai người con còn sống của ông Cao Văn Lầu là ông Cao Văn Hoai và Cao Văn Bỉnh đều cho rằng chính kỷ niệm buồn của mối tình đầu đã là niềm cảm hứng cho ông sáng tác bài ca Chiếc áo rách vai.

Theo tài liệu của nhà văn Phan Trung Nghĩa, sau này khi ban nhạc tài tử của ông Sáu Lầu trở nên nổi tiếng, ông đứng ra tổ chức một đoàn nghệ sĩ cổ nhạc ca ra bộ được đông đảo khán giả mộ điệu ủng hộ.

Trong đoàn có cô Ba Phấn nổi tiếng xinh đẹp, dịu hiền lại có giọng ca ngọt ngào, truyền cảm. Giới địa chủ, công tử nhà giàu say mê cô Ba Phấn. Tuy nhiên, cô Ba Phấn chỉ dành tình cảm đằm thắm của mình cho ông Sáu Lầu. Chính điều này đã làm bọn công tử ghen ghét, tức giận. Một ngày nọ cô Ba Phấn bị bắt cóc, bị bóp cổ rồi bị vứt thi thể dưới chân cầu quay Bạc Liêu.

 

Tình yêu son sắt

Chúng tôi tìm đến ngôi chùa Vĩnh Phước An, cũng không xa khu mộ và mảnh đất ngày xưa gia đình ông Sáu Lầu đã sống. Theo thầy trụ trì, hầu hết các tài liệu đều khẳng định chính tiếng trống đêm từ ngôi chùa này đã tác động sâu sắc vào tâm hồn nhạy cảm của Cao Văn Lầu, từ lúc còn bé cho đến khi trưởng thành và đóng vai trò là chất xúc tác để ông sáng tác bản Dạ cổ hoài lang.

Nghệ sĩ lão thành Lâm Tương Vân – người từng có nhiều dịp gặp gỡ nhạc sĩ Cao Văn Lầu – kể rằng qua hai cuộc tình dang dở, khổ đau và bất hạnh, ông Sáu Lầu đã nghe lời cha mẹ lấy cô thôn nữ Trần Thị Tấn với lý do “nhà họ cũng nghèo như nhà mình”.

Ngặt nỗi ăn ở với nhau suốt ba năm mà vợ ông Sáu Lầu vẫn không có thai khiến mẹ chồng phật ý, khuyên hai người nên ly dị để ông kiếm vợ khác, sinh con trai nối dõi. Không dám cãi lời má nhưng cũng không đành bỏ vợ, ông Sáu Lầu lại một lần nữa đối diện với nỗi đau xa cách người thương. Ngày chia tay, bà ôm trong người một gói quần áo cũ, đầu đội chiếc khăn rằn của ông rồi bước cao bước thấp đi về nơi vô định.

Ở lại, ông Sáu Lầu ngày ngày xách đờn ra phía bìa ruộng, nơi vợ chồng biệt ly lần đầu để đàn những bản mà vợ ông rất thích. Một đêm trung thu năm 1919, ông trằn trọc không ngủ được với bao nỗi ngổn ngang. Tiếng trống sang canh vọng lại từ ngôi chùa Vĩnh Phước An ở đầu xóm càng khiến ông thấy đau lòng. Bởi sang canh rồi lại sang canh, lại hết một đêm dài không ngủ. Mình thì chưa ra trận mà vợ đã thành người vọng phu.

Và thế là: Từ là từ phu tướng. Bảo kiếm sắc phán lên đàng. Vào ra luống trông tin nhạn. Năm canh mơ màng… Ông lẩm nhẩm những đoạn lời đầu tiên rồi tìm chữ nhạc ghép vào. Trải qua bao nhiêu đêm viết đi viết lại, Dạ cổ hoài lang ra đời. Mượn tiếng trống đêm (dạ cổ) để làm nhịp cầu chở những nhớ thương, mong đợi của người thiếu phụ vọng phu (hoài lang).

Bản nhạc được viết ra tự đáy lòng đã góp phần trùng phùng đôi vợ chồng son sắt. Những buổi nói dối mẹ đi hát đám nhạc lễ, ông Sáu Lầu đã lén gặp lại người vợ hiền. Rồi vợ ông có thai nên được mẹ chồng rước lại về làm dâu. Người con trai đầu lòng ấy chính là ông Cao Kiến Thiết – sau này là cán bộ cao cấp của Đại sứ quán Việt Nam tại Mông Cổ.

Ông Cao Kiến Thiết kể lại có lần nghe cha mình tâm sự với bạn bè rằng: “Lúc ấy tôi nghĩ giờ này vợ mình đang ở đâu? Chắc chắn là vợ mình thương mình nhiều hơn mình thương vợ mình. Số phận vợ mình như nàng Tô Huệ, vì quá thương chồng mà dệt bức cẩm hồi dâng lên vua. Hay như nàng Tô Thị chờ chồng đến hóa đá! Và tôi viết bản Hoài lang”.

HOÀNG OANH

>> 90 năm, Dạ cổ hoài lang vẫn chưa già
>> Hội thảo 90 năm bản Dạ cổ hoài lang
>> “Bài ca vua” nhắc nhớ cội nguồn

———————–

Dạ cổ hoài lang ra đời, trở thành một hiện tượng âm nhạc có một không hai khi từ một sáng tác cá nhân đã trở thành sáng tác của tập thể, khai sinh ra cả một loại hình mới: sáu câu vọng cổ.

Kỳ tới: Nghe tiếng đàn ai rao sáu câu

http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/339294/da-co-hoai-lang-suc-song-90-nam.html#ad-image-0

ĐAN THÙY – HỌA MI : Chuyện có hậu của vợ chồng nghệ sĩ tài danh và kiệt tác “Dạ cổ hoài lang”


Chuyện có hậu của vợ chồng nghệ sĩ tài danh và kiệt tác “Dạ cổ hoài lang”

Cập nhật lúc 10:28 21/04/2011

Phunutoday -Cũng trong buổi chiều ngày hôm ấy, vợ chồng Cao Văn Lầu đưa nhau ra bìa ruộng, ôm nhau tiếp tục nức nở, đến chạng vạng buộc lòng phải chia tay. Cao Văn Lầu thấy vợ chỉ ôm theo gói quần áo cũ, ông liền lấy khăn rằn quấn cổ đội lên đầu cho vợ ra đi.

Bi kịch đời người nghệ sĩTrong một lần trao đổi với người viết, ông Nguyễn Văn Tấn – Vụ trưởng, Giám đốc cơ quan đại diện Bộ Văn hoá – Thể thao – Du lịch tại TP.HCM – đã chia sẻ cảm nhận của mình về một kiệt tác mà ông yêu thích: “Dạ cổ hoài lang” vừa mang niềm riêng của tác giả, vừa chất chứa nỗi buồn chung của thời đại vong quốc. Buồn nhưng không bi lụy, nét nhạc lạc quan trỗi lên ở cuối bài khiến bài ca thấm đượm nỗi lòng của điệu buồn ai oán phương Nam, nhưng lại gợi mở một niềm tin về phận nước. 

Ở đấy, người nghe cảm nhận được nỗi lòng, thấy được mơ ước, khát khao của chính mình. Chính vì vậy, qua bao thế hệ, bao tầng lớp khắp vùng Nam bộ, kẻ sĩ lẫn dân quê từng gõ nhịp hát “Dạ cổ hoài lang” để lắng nghe tiếng lòng thầm thì, buồn vui và hy vọng”. Dường như đó không chỉ là cảm nhận của ông Tấn nói riêng mà là cảm nhận chung của nhiều người về “báu vật” “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu ra đời cách đây ngót 92 năm. 

e
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh thời

Dẫu biết mỗi lời ca, tiếng nhạc đều mang những tâm sự buồn có, vui có, những nhắn gửi của tác giả đến người đời. Báu vật “Dạ cổ hoài lang” không nằm ngoại quy luật đó. Nhưng mấy ai biết rằng, “Dạ cổ hoài lang” vẫn được yêu mến cho đến nay là do nó chất chứa những nỗi niềm chung – riêng khó tả của đời một con người lẫn đời sống xã hội một thời. Người viết đã cất công tìm truy tìm nguồn gốc, tìm hiểu những tư liệu của báu vật làng cải lương đất Nam bộ này.

Theo nhiều tư liệu quan trọng và lời kể của Cao Văn Lầu lúc sinh thời, thì vào một đêm tối trời cuối năm 1896, có 20 gia đình nông dân nghèo tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An, vì không chịu nổi cảnh sưu cao thuế nặng của bọn quan lại cường hào ác bá địa phương cai quản vùng này, nên đã xuống ghe xuôi theo dòng nước tìm về vùng đất Bạc Liêu trù phú để lập nghiệp. Trong số đó có gia đình ông Cao Văn Giỏi, là cha của người nghệ sĩ tài danh Cao Văn Lầu. Lúc ấy, Cao Văn Lầu chưa tròn 5 tuổi (SN 1892). 

Ông Cao Văn Giỏi là một người rất trọng đạo nho, ông “không sợ nghèo, chỉ sợ không giữ được đạo”. Nên khi đến vùng đất mới, ở tạm dưới mái chùa Vĩnh Phước An, ông liền gửi Cao Văn Lầu vào chùa để theo chữ nho. Học được hai năm thì lúc ấy phong trào chữ Quốc ngữ bắt đầu phát triển mạnh, ông Giỏi cho Cao Văn Lầu thôi học chữ nho chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Nhờ sáng dạ nên rất được thầy yêu, bạn mến. Việc học đang  tấn tới, tương lai đang rộng mở phía trước nhưng đến lớp nhì (nay là lớp 4) thì ông Lầu đành chịu cảnh “xếp bút nghiên” vì hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn, không có khả năng cho ông ăn học đến nơi đến chốn.

Cao Văn Lầu đã bỏ học về phụ giúp gia đình nhưng rốt cuộc gia đình chẳng vơi đi chút khó khăn nào. May thay lúc bấy giờ ở xóm Rạch Ông Bổn có ông thầy dạy đờn tên Lê Tài Khị, tục gọi là Nhạc Khị. Ông Giỏi nghe danh nên gửi con trai cho thầy Khị để dạy dỗ. Thầy Khị, nổi tiếng môn nhạc lễ và nhạc tài tử bởi ngón đờn điêu luyện. Nhờ siêng năng, sáng dạ bẩm sinh nên bốn năm bên thầy Khị, Cao Văn Lầu đã tiếp thu nhiều tinh tuý trong âm nhạc của thầy mà các bạn đồng môn không có khả năng được. Bởi Cao Văn Lầu luôn thấm thía lời thầy dạy: “Đờn lạc điệu như tín đồ lạc đạo. Còn đờn sai nhịp, sai câu giống như người chiến sĩ bị lỗi đường gươm nơi trận mạc”. Và “Trò nào có lòng tự trọng nghệ thuật, biết sáng kiến trong nghệ thuật thì thầy sẽ đem hết tâm huyết truyền dạy, các trò thành tài thầy rất quí trọng và biết ơn”.

d
Giáo sư – tiến sĩ Trần Văn Khê, trong buổi họp bàn về hồ sơ đờn ca tài tử

Chính vì chuyên tâm học hỏi mà Cao Văn Lầu nhanh chóng sử dụng thành thạo các nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống… và trở thành nhạc sĩ nòng cốt trong ban nhạc của thầy Khị. Được biết ban nhạc của thầy Khị nổi tiếng khắp đất Nam Kỳ lục tỉnh lúc bấy giờ. Ban nhạc hoạt động theo hình thức nhạc lễ kết hợp với đờn ca tài tử. Trong các cuộc lễ tế đêm khuya, thầy tụng xả hơi thì ban nhạc bày ra đờn ca tài tử. Một hình thức mới rất ăn khách mà bấy lâu thầy Nhạc Khị chưa có dịp thực hiện. Nhờ có đờn ca tài tử mà khách đến dự đám ở lại với gia chủ suốt đêm, để thưởng thức tiếng đàn lời ca. 

Trong bối cảnh đó, chẳng bao lâu, danh tiếng của chàng trai trẻ Cao Văn Lầu nổi như cồn, mỗi lúc một vang xa ở vùng đất phương Nam. Sau đó soạn giả Mộng Vân – một người bạn đồng môn với nhạc sĩ Cao Văn Lầu, lập gánh hát mời ông về làm nhạc trưởng. Chia tay ban nhạc của Thầy Khị, Cao Văn Lầu như “chim ra ràng”, danh tiếng càng vang xa hơn, nhờ đó mà ông có tiền gửi về nuôi cha mẹ. Theo đoàn hát được vài năm, lúc này Cao Văn Lầu tuổi đã ngoài 20, cha mẹ ông muốn có người nối dõi tông đường nên bắt buộc ông về cưới vợ, sinh con. Vâng lệnh cha mẹ, Cao Văn Lầu chính thức lấy vợ, là cô Trần Thị Tấn, một cô gái nết na, chất phác ở miệt biển Bạc Liêu. 

Sau này chính người nhạc sĩ tài hoa Cao Văn Lầu đã từng tâm sự về những quãng đời, chuyện tình nhiều bi kịch nhưng có cái hậu đẹp của vợ chồng mình. Khi ấy, để có tiền cưới vợ, ông phải đi vay 80 đồng của bà Sư Chơn với lãi suất cắt cổ, mỗi ngày đóng 1,6 đồng, mỗi tháng 48 đồng, tính ra tính lại lãi suất lên đến 60%/ tháng. Chính vì thế, sau khi nên vợ thành chồng, hai vợ chồng Cao Văn Lầu đã phải đi vào rừng lượm củi, xúc tép dưới lung về bán để trả nợ. 

Chính vì cái nghèo, cái cảnh chạy ăn từng bữa đó mà  sau khi cưới ba năm trời, người vợ gầy héo không thể sinh con. Theo tục lệ lễ giáo phong kiến thời xưa “Tam niên vô tử bất thành thê”, một quan niệm khắc nghiệt khiến cho nhiều đôi lứa chia lìa, ôm đau khổ. Vợ chồng Cao Văn Lầu không nằm ngoài quan niệm khắt khe đó, mẹ ông nói thẳng: “Con hãy liệu mà kiếm vợ khác để nối dõi tông đường. Đó là chữ Hiếu của con mà mẹ cũng trọn đạo với tổ tiên”. Nghe qua nghiêm lệnh của người mẹ, ông Lầu như thấy trời long đất lở. Hạnh phúc lứa đôi rồi đây sẽ sụp đổ. Thương cho người vợ hiền tần tảo, thủy chung nào hay tin dữ. Phận làm con phải lấy chữ Hiếu làm trọng, ông hiểu nhưng chữ Tình nào dám rẻ khinh, nhưng chữ Hiếu cũng chẳng dám coi khinh, đặc biệt là trong xã hội phong kiến thời bấy giờ.

Ông Lầu cứ chần chừ, còn mẹ ông thì chờ đợi cả thời gian dài nhưng không thấy con trai thi hành nghiêm lệnh. Một hôm bà mẹ chồng quyết định nói cho con dâu biết rõ sự tình.  

Như mọi ngày, vợ chồng Cao Văn Lầu vẫn vào rừng mò củi, xúc tép để mưu sinh. Đến trưa, củi đầy ghe mà tép cũng nhiều. Hai vợ chồng dọn cơm lên mũi ghe, bất chợt vợ ông nghẹn ngào: “Má không cho mình ở với nhau nữa. Thôi anh cưới vợ khác, em về với mẹ cha em”. Nói xong hai vợ chồng gục đầu vào nhau khóc nức nở.  

Cũng trong buổi chiều ngày hôm ấy, vợ chồng Cao Văn Lầu đưa nhau ra bìa ruộng, ôm nhau tiếp tục nức nở, đến chạng vạng buộc lòng phải chia tay. Cao Văn Lầu thấy vợ chỉ ôm theo gói quần áo cũ, ông liền lấy khăn rằn quấn cổ đội lên đầu cho vợ ra đi. Người vợ của ông, lòng đau đớn dâng trào, tay lau nước mắt, chân bước thất thểu ra đồng như đi về nơi vô định. Sau khi vợ đi rồi, Cao Văn Lầu như người mất hồn, ra vào như một bóng ma trong chính ngôi nhà của mình.

Một hôm ông sang nhà nhạc phụ tìm vợ, mới biết vợ ông không trở về nhà mà chính gia đình vợ cũng không biết con gái đã đi đâu. Lòng càng hoang mang, tìm khắp nơi nhưng hình bóng người vợ hiền vẫn bặt vô âm tín. Suốt một năm ròng chẳng biết vợ ở đâu, ông đành ôm sầu nuốt lệ. Cứ mỗi khi chiều xuống, nhớ vợ ông xách đờn ra bìa ruộng, nơi diễn ra cảnh vợ chồng ly biệt. Nhìn ra đồng mà hình dung bóng người vợ hiền thất thểu giữa trời đêm. Ông gảy đờn theo tâm trạng của vợ lúc ấy, hết “Xuân nữ” đến “Nam ai” rồi “Trường tương tư” mà lòng chẳng vơi chút sầu thương.  

Từng kể lại với người viết, ông Cao Kiến Thiết – con trai trưởng Cao Văn Lầu, xác nhận, có lần ông đã nghe cha mình tâm sự với bạn bè: “Lúc ấy tôi nghĩ, giờ này vợ mình ở đâu? Chắc chắn là vợ mình thương mình nhiều hơn mình thương vợ. Số phận vợ mình sao mà giống thân phận nàng Tô Huệ, quá thương chồng nên dệt bức “Chức cẩm hồn văn” dâng lên vua để tỏ lòng nhớ thương chồng. Hay nàng Tô Thị thương chồng đứng chờ cho đến khi hóa đá. Nên tôi viết bài “Hoài lang” (Nhớ chồng)”. Khi ấy người nhạc sĩ tài danh Cao Văn Lầu ở tuổi 28.

Bài ca… nhớ vợ!

Sau nhiều tháng bầu bạn với cây đàn, chiều nào ông cũng ngồi bên bìa ruộng, hình dung bóng vợ gạt lệ ra đi. Từng bước biệt ly mà lòng đau quặn thắt. Ông vừa đờn vừa ca, mải mê trau chuốt bản đờn sao cho ngọt ngào, lột tả nỗi lòng khi “én nhạn lìa đôi”. Đến khi nghe tiếng trống điểm canh vọng lại ông mới giật mình, đêm đã khuya. Sinh thời ông Sáu Lầu (tức Cao Văn Lầu) có kể, khi ấy bất chợt ông nghĩ: Tiếng trống đêm đánh lên trong khi mình đờn bài “Hoài lang”. À, phải rồi. Âu là mình lấy hai chữ “Dạ cổ” (tiếng trống đêm) thêm vào tên bản nhạc “Hoài lang” thành “Dạ cổ hoài lang” (tức đêm nghe tiếng trống nhớ chồng) vậy là hay biết mấy. Thế là bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời, với 20 câu làm não ruột người nghe. (Theo GS.TS. Trần Văn Khê, lời ca của bài “Dạ cổ hoài lang”, nhịp đôi có nhiều dị bản. Thông thường, nghệ sĩ cải lương ca bài ca trên được coi đó là lời ca chính thức.)

Theo nghệ sĩ Lâm Tường Vân, bài “Dạ cổ hoài lang” là tiếng nấc của nhạc sĩ tài hoa Cao Văn Lầu. Là bản nhạc lòng không phải để phô trương; chỉ để trao đổi cùng tri kỷ, tri âm. Bản “Dạ cổ hoài lang” là một “Bản Oán” đặt biệt, buồn biệt ly và có tâm trạng hy vọng đợi chờ. Cũng theo nghệ sĩ Lâm Tường Vân, bản nhạc có lời ca thật xuất sắc, song tên bản nhạc còn hẹp nghĩa, sau đó được thầy tuồng Trần Xuân Thơ góp ý: Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng, vậy ban ngày nghe tiếng trống không nhớ chồng sao? Cao Văn Lầu cảm nhận được ý hay nên đổi “Dạ cổ hoài lang” thành “Vọng cổ hoài lang” (nghe tiếng trống từ xa vọng lại nhớ chồng). Để rồi vào một đêm rằm tháng 8/1919, tại làng Vĩnh Hương, tổng Hòa Thạnh (nay là phường 2, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu), người nghệ sỹ tài danh Cao Văn Lầu chính thức công bố bản nhạc bất hủ của đời mình và đến nay trở thành “báu vật”. 

f
Khách tham quan nhà trưng bày hiện vật của nhạc sĩ Cao Văn Lầu tại tỉnh Bạc Liêu

Thế nhưng niềm vui chưa trọn vẹn thì tai hoạ lại xảy ra. Đó là việc ông Cao Văn Lầu bị sở Mật thám tỉnh Bạc Liêu hai lần mời lên để thẩm vấn về sự ra đời của bản “Dạ cổ hoài lang”. Cụ thể, chính quyền thời bấy giờ kết tội ông Sáu Lầu sáng tác bài “Dạ cổ hoài lang” là bài ca quốc sự, nhằm kích động quần chúng chống bắt lính, chống chính quyền, với câu: Từ là từ phu tướng – Báu kiếm sắc phán lên đàng…”. Nhưng lúc này, ông phản bác một cách hết sức đơn giản nhưng đầy tính thuyết phục. Theo lời kể của chính Cao Văn Lầu thì lúc này ông nói: “Trong cảm hứng của tôi, lấy hình tượng nàng Tô Huệ trong “Chức cẩm hồn văn” để nói lên nỗi đau tột cùng cuộc chia ly của vợ chồng tôi mà không hề có câu chữ nào được coi là chống chính quyền, chống bắt lính cả”. Thế là chính quyền chẳng bắt tội được ông. 

Sau khi bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời, người may mắn được ông dạy bản “Dạ cổ hoài lang” đầu tiên là nghệ sĩ Bảy Cao, kế đến là Lưu Hoài Nghĩa, rồi lần lượt đến các nghệ sĩ khác và người hâm mộ. Dần dà người dân khắp nơi ai cũng thuộc làu làu, ít nhất là đôi ba câu, và sau này có nhiều dị bản khác nhau. Nhưng ông vẫn không lúc nào vơi nỗi buồn thương, nhớ vợ một cách da diết. Không thể cam chịu cảnh chia ly, một mình khóc với bài ca. Ông Sáu Lầu quyết tâm đi tìm vợ! Ít lâu sau ông tìm gặp vợ ẩn sau mái chùa làm công quả. Cuộc trùng phùng như được tái sinh. Từ đó ông hay lui tới thăm vợ. 

Nỗi hạnh phúc trùng phùng vừa ập đến, vui khôn tả thì một thời gian ngắn sau, vợ chồng ông Sáu Lầu tiếp tục nhận được tim mừng như tràn ngập trên cõi đời này, là vợ ông đã mang thai. Tuy vậy ông cũng không khỏi lo âu, bởi nghiêm lệnh của mẹ ông vẫn còn đó. Nhưng ông vẫn nhất quyết về thưa với mẹ. Mẹ ông nghe qua, thay vì giận dữ, trái lại như bắt được vàng, hối thúc con trai chuẩn bị ghe rước con dâu trở về nhà. Từ đó vợ chồng nhạc sĩ Cao Văn Lầu đoàn tụ vui vầy, một chuyện bi kịch và có hồi kết có hậu. Vợ chồng ông sống với nhau, có tất cả 7 người con, gồm 5 trai và 2 gái. Các con ông sau này phần lớn thoát ly gia đình tham gia cách mạng từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Người con cả là Cao Kiến Thiết, nguyên là Tham tán, đại sứ Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam tại Liên Xô; người con thứ Cao Văn Cường, là y tá trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1946; Cao Văn Đàng làm công tác binh vận; Cao Văn Bỉnh, cán bộ chỉ huy hệ thống thông tin các đội tàu vận tải vũ khí đường Hồ Chí Minh trên biển… 

Cho đến nay, tại Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu vẫn còn lưu giữ bút tích của nhạc sĩ tài danh Cao Văn Lầu trong một cuốn sổ tay, trong đó có dặn dò con cháu về lẽ sống ở đời và đặc biệt có nhắn gửi “khi ba mất nhớ để ba nằm gần má tụi con ở phía mặt trời mọc….” Hay như lời dạy con của cố nhạc sĩ trở thành lời dạy lưu danh “nghe đờn ca tài tử phải đợi lúc khuya mới mùi, phải có tình yêu đằm thắm với nó mới hay. Bản vọng cổ cũng giống như cục nhân bánh miền Nam. Nếu móc cái nhân ăn trước thì không còn ngon nữa…” Không quên lời dặn dò của ông, khi qua đời vợ chồng Cao Văn Lầu – bà Trần Thị Tấn đã được nằm cạnh nhau, trong một khu di tích rộng lớn tại thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Mới đây nhất vào tháng 3/2011, chính quyền địa phương và một doanh nghiệp bất động sản tại TP.HCM đã bỏ ra hơn 5 tỷ đồng để trùng tu khu di tích này. Ngoài ra tại Bạc Liêu nay cũng đã có con đường mang tên Cao Văn Lầu dẫn từ trung tâm thị xã ra biển như sự lưu danh của người nghệ sĩ tài danh vì những đóng góp vô giá của ông đối với vùng đất này.

Bài ca vua của sân khấu cải lương

Từ khi bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời, nhanh chóng đi sâu vào lòng người mộ điệu, trở thành bài ca chính thống, bài ca vua trên sân khấu cải lương Nam bộ. Qua mỗi giai đoạn phát triển trở nên hay hơn và chuyển dần thành nhiều nhịp. 

Cụ thể năm 1924, tăng lên 4 nhịp. Năm 1934 – 1944, tăng lên 8 nhịp. Năm 1945 – 1954, tăng lên 16 nhịp. Năm 1955 – 1964, tăng lên 32 nhịp và từ 1965 đến nay tăng lên 64 nhịp. Và cứ mỗi lần phát triển, bài “Dạ cổ hoài lang” không dừng lại ở nguyên bản như các bài nhạc cổ khác, mà dần biến đổi hình thức, làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương. Rõ nét nhất là từ thập niên 1960, soạn giả Viễn Châu, đã tạo nên mối lương duyên kỳ lạ, kết hợp Tân nhạc vào Vọng cổ cho ra đời bản “Tân cổ giao duyên”, thu hút được khán thính giả tân và cổ nhạc. Điều này chỉ có ở vọng cổ, bởi lẽ tiếng nhạc du dương và lời ca bình dị hợp với tấm lòng người Nam bộ. Lúc buồn, vọng cổ giúp giãi bày tâm sự, vơi đi buồn tủi; lúc vui tươi, vọng cổ góp phần cho sự kiện hân hoan. Cũng chính bản vọng cổ đã góp phần mang lại ánh hào quang cho nhiều thế hệ nghệ sĩ, danh ca, danh cầm, soạn giả sân khấu cải lương vùng đất Nam bộ. 

Điều này đã được nghệ sĩ sân khấu Huỳnh Khánh thừa nhận: “Bài Dạ cổ của bác Sáu Lầu đã đưa tôi lên địa vị vua vọng cổ một thời”. Còn nghệ sĩ Bảy Cao thì: “Tôi cho bài “Dạ cổ hoài lang” – bây giờ là bản vọng cổ từ nhạc sĩ Cao Văn Lầu tạo ra là bài ca vô địch. Nó có thể nói lên hết tâm tư nguyện vọng và bộc lộ hết tình cảm của con người, tuỳ theo thời gian và hoàn cảnh”. Được biết trong tháng 10/2009, chính quyền tỉnh Bạc Liêu đã long trọng tổ chức lễ hội “Dạ cổ hoài lang” nhân kỉ niệm 90 năm ngày tác phẩm này ra đời. Cũng trong dịp này một giải thưởng Nhà nước cấp tỉnh – giải thưởng Cao Văn Lầu – được ra mắt, nhằm khen thưởng, động viên các những hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, những đóng góp của văn nghệ sĩ, nghệ nhân trong lĩnh vực này cho Bạc Liêu.

GS-TS. Trần Văn Khê, khẳng định: “Trong cổ nhạc Việt Nam, chưa có bài bản nào được như “Dạ cổ hoài lang” biến thành vọng cổ. Từ một sáng tác cá nhân đã biến thành sáng tác tập thể, sanh từ đầu thế kỷ, lớn lên sống mạnh, biến hóa thiên hình vạn trạng, và sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt khắp năm châu bốn bể”. Điều này đã được khẳng định vào cuối tháng 3 vừa qua, Hội đồng Di sản văn hoá quốc gia đã trình hồ sơ “Nghệ thuật đờn ca tài tử” lên UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc) để công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. 

GS-TS Trần Văn Khê – Cố vấn hồ sơ đờn ca tài tử, cho biết gần như chắc chắn “Nghệ thuật đờn ca tài tử” sẽ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, vì ông đã dọn đường cho bộ môn nghệ thuật này đến với UNESCO từ thế kỷ trước. Ông đề nghị những người có trách nhiệm nhắc cho UNESCO biết không phải đến bây giờ, đờn ca tài tử mới được trình lên UNESCO mà từ năm 1963, đờn ca tài tử đã được đưa vào một đĩa hát của UNESCO và chính GS-TS Trần Văn Khê là người viết lời giới thiệu tại Paris (nước Pháp). 

Có thể không ngoa khi nói rằng, “Dạ cổ hoài lang” dường như đã trở thành một trong những “báu vật” trong đời sống tinh thần của người Việt. Cao Văn Lầu là một nghệ nhân trứ danh, khi đã biến được tiếng khóc riêng của mình trở thành tiếng lòng chung. Chúng tôi tin rằng khi ấy “Nghệ thuật đờn ca tài tử” – trong đó có bài “tổ” “Dạ cổ hoài lang” sẽ không còn là di sản văn hóa của riêng người dân Nam bộ phóng khoáng, người Việt nghĩa tình, mà nó sẽ trở thành di sản của cả nhân loại. Tin tưởng rằng điều đó sẽ trở thành hiện thực trong một ngày không xa.

Nguyên tác bài “Dạ cổ hoài lang”

1. Từ là từ phu tướng
2. Báu kiếm sắc phán lên đàng
3. Vào ra luống trông tin nhạn
4. Năm canh mơ màng
5. Em luống trông tin chàng
6. Ôi! Gan vàng thêm đau
7. Đường dầu xa ong bướm
8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9. Còn đêm luống trông tin bạn
10. Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu
11. Vọng phu vọng luống trông tin chàng
12. Lòng xin chớ phụ phàng
13. Chàng là chàng có hay
14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15. Biết bao thuở đó đây sum vầy
16. Duyên sắc cầm đừng lợt phai
17. Là nguyện – cho chàng
18. Hai chữ an – bình an
19. Trở lại – gia đàng
20. Cho én nhạn hiệp đôi.

Đan Thuỳ – Hoạ Mi